Đề xuất trao quyền cho Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp
Sáng 26/6, tiếp tục Kỳ họp thứ 9, Quốc hội thảo luận tại hội trường về Dự án Luật Tình trạng khẩn cấp. Đáng chú ý, tại phiên thảo luận, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đề xuất, trong trường hợp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp thì Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp

Quang cảnh phiên họp. Ảnh: ST
Tại phiên thảo luận, đa số ĐBQH tán thành ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp trong phòng, chống, khắc phục thảm họa, sự cố, cứu nạn, cứu hộ, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh…
Theo đại biểu Tô Văn Tám (Đoàn ĐBQH tỉnh Kon Tum), các tình huống khẩn cấp, như: Dịch bệnh, thiên tai, thảm họa hay khủng bố… đe dọa trực tiếp đến cuộc sống của người dân và trật tự an toàn xã hội. Trong khi đó, các quy định hiện hành về tình trạng khẩn cấp còn ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, chưa đầy đủ và thống nhất.

ĐBQH Tô Văn Tám phát biểu tại phiên thảo luận. Ảnh: ST
“Việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất cho hoạt động chỉ đạo, điều hành và bảo đảm quyền con người trong các tình huống đặc biệt, thể chế hóa quan điểm của Đảng và phù hợp với thực tiễn” - đại biểu nhấn mạnh.
Trong khi đó, đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông) cho rằng, thực tế ứng phó với đại dịch Covid-19 vừa qua cho thấy, có những trường hợp để bảo đảm ứng phó với các tình huống nguy hiểm đe dọa sức khỏe, tính mạng của người dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội cần thực hiện những biện pháp như trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp.
Mặt khác, qua rà soát cho thấy, Luật An ninh quốc gia cũng có quy định về việc áp dụng một số biện pháp cần thiết khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 cũng quy định Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định áp dụng các biện pháp cấp bách khác quy định của pháp luật hiện hành trong một số trường hợp thật cần thiết.

Đại biểu Dương Khắc Mai phát biểu tại phiên thảo luận. Ảnh: ST
Do đó, đại biểu đề xuất cân nhắc bổ sung quy định về việc cho phép Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được áp dụng một số biện pháp cần thiết được quy định trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp để ứng phó kịp thời những tình huống nguy hiểm, cấp thiết, hạn chế khả năng phải ban bố tình trạng khẩn cấp.
Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp tại Điều 9 dự thảo Luật quy định thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp là Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công bố tình trạng khẩn cấp là Chủ tịch nước và căn cứ vào Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban bố tình trạng khẩn cấp, Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
Đại biểu Tô Văn Tám cho rằng, đây là hai việc khác nhau: Ban bố tình trạng khẩn cấp là quyết định của cơ quan có thẩm quyền và ở đây là Ủy ban Thường vụ Quốc hội; còn công bố tình trạng khẩn cấp là việc thông báo công khai cho người dân và toàn xã hội về quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp để cơ quan tổ chức và người dân thi hành.
Trong khi đó, ở khoản 1 và khoản 4, Điều 9 quy định, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp. "Nếu quy định như vậy thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp thì cũng không thể quyết định được ban bố tình trạng khẩn cấp. Và nếu không có quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp thì không có căn cứ để Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp".
Do vậy, đại biểu Tô Văn Tám đề nghị, cần chỉnh lý lại theo hướng trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì trao quyền cho Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp và công bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ nhằm bảo đảm tính phù hợp với thực tế.
Cùng quan điểm trên, đại biểu Lê Xuân Thân (Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa) đề nghị, quy định lại Điều 9 thành 2 khoản rõ ràng. Trong đó, khoản 1 là quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban bố tình trạng khẩn cấp như Hiến pháp 2013; đồng thời, quy định về thủ tục trình tự để làm căn cứ dựa vào ý kiến của cơ quan có thẩm quyền thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp.
Khoản 2 quy định về Chủ tịch nước, nếu như Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp và có Nghị quyết thì Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp; nếu Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì Chủ tịch nước chủ động công bố tình trạng khẩn cấp./.