Di chỉ khảo cổ Đông Sơn: Lắng đọng nhiều giá trị tinh hoa
Trong quá trình hình thành nền văn hóa xứ Thanh từ cổ chí kim, sông Mã giữ một vai trò hết sức đặc biệt. Dọc đôi bờ sông Mã là nơi hình thành và nuôi dưỡng nhiều nền văn hóa cổ giàu giá trị. Trong đó, văn hóa Đông Sơn nói chung, di chỉ khảo cổ Đông Sơn nói riêng, là minh chứng thuyết phục nhất.
Một hố khai quật di chỉ khảo cổ học văn hóa Đông Sơn được xây dựng mái và hàng rào bảo vệ.
Lịch sử còn ghi lại rằng, cách đây khoảng 7.000 năm, đồng bằng sông Mã với nguồn tài nguyên đất đai, sông ngòi đa dạng, đã lôi cuốn chủ nhân văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn rời khỏi hang động, mái đá ở vùng núi phía Tây, để tràn xuống vùng đồng bằng và dần trở thành chủ nhân của nền văn hóa Đa Bút. Trải qua quá trình định cư và lao động lâu dài, tổ tiên ta đã cải tạo những vùng đất hoang hóa trở thành những đồng bằng màu mỡ. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần trở nên phong phú. Đồng thời, tạo ra cơ sở xã hội để người Thanh Hóa bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ bậc nhất: Thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Qua quá trình khảo sát, tìm hiểu, giới khảo cổ và các nhà nghiên cứu đã phát hiện gần 100 di tích thuộc văn hóa Đông Sơn ở lưu vực sông Mã với niên đại khác nhau. Trong đó, dấu tích của văn hóa Đông Sơn xuất hiện dày đặc ở các huyện Đông Sơn, Hoằng Hóa, Thiệu Hóa và TP Thanh Hóa. Đây là minh chứng rõ nét cho khả năng làm chủ đồng bằng của người Việt cổ xứ Thanh, với nhiều làng có lịch sử hàng nghìn năm như Đông Sơn, Thiệu Dương, Quỳ Chử...
Từ những loại hình di tích được tìm thấy, nhiều người cho rằng, đã có một cuộc sống phong phú cả về vật chất và tinh thần của cư dân Thanh Hóa thời kỳ Đông Sơn. Trong đó, Giáo sư sử học Phạm Huy Thông đã đưa ra nhận định hết sức quan trọng rằng: “Người Việt cổ đại đã có thời làm chủ một cuộc sống huy hoàng với văn hóa Đông Sơn, với các Vua Hùng. Di tích Đông Sơn bên bờ sông Mã chứng tỏ tài năng xuất chúng về phát minh và đúc trống đồng văn minh hơn châu Âu ngang thời của người Việt cổ”. Đặc biệt, sự tập trung các “làng cổ Đông Sơn” quanh vùng đất Ngã Ba Đầu, với các làng nghề nổi tiếng (làng gốm, làng chế tác đồ trang sức bằng đá quý, đến làng dệt, lò luyện kim, đúc trống đồng, binh khí, công cụ sản xuất) và những cảng sông tấp nập, đã biến vùng đất ngã Ba Đầu đến ngã Ba Bông trở thành một trung tâm giao thương, mang dáng dấp của một đô thị cổ, trên trục giao thông đường thủy, nối liền vùng sông Hồng với sông Mã, sông Lam.
Làng cổ Đông Sơn (TP Thanh Hóa) nằm giữa vùng đồng bằng hữu ngạn hạ lưu sông Mã. Nép mình trong “chín mươi chín ngọn bên Đông”, làng cổ này vẫn ít nhiều mang dáng dấp của làng Việt cổ yên bình, với cây đa, giếng nước, sân đình, cùng nhiều danh thắng, di tích trầm mặc. Nhưng cũng chính ngôi làng nhỏ ấy lại là nơi phát tích di chỉ văn hóa Đông Sơn từng làm kinh ngạc giới khảo cổ trong và ngoài nước. Câu chuyện về việc phát hiện ra di chỉ này cũng thật tình cờ. Vào khoảng năm 1924, một người dân làng Đông Sơn ra sông Mã câu cá đã ngẫu nhiên tìm thấy một số đồ đồng “ngoi” ra khỏi lòng đất sau trận mưa lớn. Những đồ đồng này được đem bán cho L.Pajot, một viên chức thuế quan Pháp. Sự việc sau đó được báo lên Trường Viễn đông Bác Cổ và Pajot được ủy nhiệm tiến hành “khai quật” di tích Đông Sơn. Qua các cuộc khai quật, người ta đã tìm thấy 489 hiện vật bằng đồng. Các hiện vật này sau khi được công bố đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả nghiên cứu về Đông Nam Á. Đặc biệt, năm 1934, trong một bài nghiên cứu về đồ đồng ở Đông Nam Á, nhà khảo cổ học người Áo Heine - Geldern đã đề nghị gọi tên nền văn hóa đồ đồng này là “Văn hóa Đông Sơn”.
Từ đó đến nay, di chỉ khảo cổ Đông Sơn luôn có sức hấp dẫn đặc biệt đối với giới khảo cổ học, sử học. Qua các đợt khai quật, người ta đã thu được số lượng di vật đồ sộ, phong phú, gồm có công cụ sản xuất (lưỡi cày, liềm, đục, rìu...); vũ khí (dao găm, đoản kiếm, mũi tên...); đồ đựng (nồi, bình, chậu...); đồ trang sức (khuyên, vòng, chuỗi hạt...); các đồ vật khác (tượng, chuông, trống...). Trong nhiều di vật được tìm thấy, trống đồng là vật giàu giá trị bậc nhất. Nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Tuấn Phổ trong tác phẩm “Tinh hoa văn hóa xứ Thanh” đã đưa ra nhận định sâu sắc về trống đồng: “Mặc dù thuộc loại II, trống đồng Đông Sơn - Hàm Rồng được các nhà nghiên cứu khoa học chú ý đặc biệt vì đã tìm thấy chúng hàng loạt dưới những ngôi mộ cổ - loại mộ đất, cùng nhiều di vật giá trị, khẳng định tính bản địa, nguồn gốc dân tộc của chúng, mách bảo giới khảo cổ học và sử học về chủ nhân xa xưa không thể ai khác ngoài người Lạc Việt sông Mã”. Trống đồng Đông Sơn được xem là tinh hoa của văn minh Đông Sơn - văn minh dân tộc, bởi giá trị và tính thiêng của nó. Cũng theo như nhận định của nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ, thì đó là thứ nhạc khí có tác dụng kỳ diệu nhất. Tiếng trống cất lên ầm vang, lan tỏa núi sông, rung động đất trời, kêu gọi quần chúng, hiệu triệu quân sĩ chống giặc bảo vệ làng nước. Tiếng trống tưng bừng rộn rã ăn mừng thắng trận, ngày mùa...
Tài liệu từ các cuộc điều tra, thám sát, khai quật hàng loạt di tích Đông Sơn ở Thanh Hóa và di chỉ khảo cổ Đông Sơn (làng Đông Sơn), đã khẳng định tầm vóc và vị thế của văn hóa Đông Sơn không chỉ ở Việt Nam, mà thậm chí là cả khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, những di tích, hiện vật được tìm thấy là những tư liệu văn hóa vật chất cần thiết, phản ánh quá trình diễn biến văn hóa, giữa văn hóa Đông Sơn bản địa và văn hóa ngoại lai; cũng như quá trình đấu tranh giữ gìn bản sắc văn hóa Đông Sơn chống lại âm mưu đồng hóa văn hóa của kẻ thù trong đêm dài Bắc thuộc. Vấn đề đặt ra lúc này là cách hậu thế ứng xử sao cho phù hợp, trên tinh thần tôn trọng lịch sử, dựa trên cơ sở khoa học, để có cách thức bảo tồn và phát huy giá trị di sản một cách đúng đắn, hiệu quả và bền vững.