Điểm mặt pháo phản lực Trung Quốc len lỏi vào xung đột Nagorno-Karabakh

Trong cuộc xung đột giữa Armenia và Azerbaijan tại khu vực Nagorno-Karabakh hiện nay, hai bên tham chiến đã sử dụng nhiều loại pháo phản lực phóng loạt tầm xa do Trung Quốc sản xuất, hoặc có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Phía Armenia đã sử dụng pháo phản lực phóng loạt tầm xa duy nhất là WM-80, được nhập từ Trung Quốc vào thập niên 1990, để tiến công sâu vào mục tiêu sâu trong lãnh thổ Azerbaijan.

Phía Armenia đã sử dụng pháo phản lực phóng loạt tầm xa duy nhất là WM-80, được nhập từ Trung Quốc vào thập niên 1990, để tiến công sâu vào mục tiêu sâu trong lãnh thổ Azerbaijan.

Pháo phản lực phóng loạt tầm xa WM-80 do Trung Quốc phát triển, sử dụng đạn có 273mm; đây là loại pháo cấp chiến dịch, chủ yếu được sử dụng để tiêu diệt và chế áp các trận địa pháo binh, cụm xe tăng, xe bọc thép và kho tàng, sân bay, bến cảng, nằm sâu trong tung thâm phòng ngự của đối phương.

Pháo phản lực phóng loạt tầm xa WM-80 do Trung Quốc phát triển, sử dụng đạn có 273mm; đây là loại pháo cấp chiến dịch, chủ yếu được sử dụng để tiêu diệt và chế áp các trận địa pháo binh, cụm xe tăng, xe bọc thép và kho tàng, sân bay, bến cảng, nằm sâu trong tung thâm phòng ngự của đối phương.

Hệ thống phóng tên lửa sử dụng khung gầm xe tải việt dã TA-550 (6×6), cụm ống phóng được lắp đặt trên một mâm xoay ở phía sau xe, bao gồm hai cụm ống phóng (mỗi cụm có 4 ống phóng). Toàn bộ hệ thống gồm có xe phóng, xe tiếp đạn, xe trinh sát, xe chỉ huy (cấp tiểu đoàn trở lên), v.v.

Hệ thống phóng tên lửa sử dụng khung gầm xe tải việt dã TA-550 (6×6), cụm ống phóng được lắp đặt trên một mâm xoay ở phía sau xe, bao gồm hai cụm ống phóng (mỗi cụm có 4 ống phóng). Toàn bộ hệ thống gồm có xe phóng, xe tiếp đạn, xe trinh sát, xe chỉ huy (cấp tiểu đoàn trở lên), v.v.

Xe tải việt dã TA-550 có tốc độ di chuyển tối đa 70 km/h, dự trữ hành trình 400 km; tầm bắn tối đa của pháo WM-80 là 120 km, tầm bắn tối thiểu 34 km, xác suất sai số tròn khoảng 50 mét.

Xe tải việt dã TA-550 có tốc độ di chuyển tối đa 70 km/h, dự trữ hành trình 400 km; tầm bắn tối đa của pháo WM-80 là 120 km, tầm bắn tối thiểu 34 km, xác suất sai số tròn khoảng 50 mét.

Ngoài bắn đạn không điều khiển, hệ thống còn bắn được đạn có điều khiển bằng dẫn đường quán tính kết hợp điều chỉnh sai số bằng hệ thống định vị toàn cầu. Tốc độ bắn của toàn bộ hệ thống là 8 phát/giây, thời gian nạp đạn lại từ 5-8 phút.

Ngoài bắn đạn không điều khiển, hệ thống còn bắn được đạn có điều khiển bằng dẫn đường quán tính kết hợp điều chỉnh sai số bằng hệ thống định vị toàn cầu. Tốc độ bắn của toàn bộ hệ thống là 8 phát/giây, thời gian nạp đạn lại từ 5-8 phút.

Kíp chiến đấu của WM-80 có 3 pháo thủ, trong trường hợp khẩn cấp, một người có thể hoàn thành nhiệm vụ phóng một cách độc lập; nếu cần có thể thực hiện thao tác bắn bằng điều khiển từ xa. Pháo có thể bắn phát một hoặc bắn liên tục hoặc phóng loạt.

Kíp chiến đấu của WM-80 có 3 pháo thủ, trong trường hợp khẩn cấp, một người có thể hoàn thành nhiệm vụ phóng một cách độc lập; nếu cần có thể thực hiện thao tác bắn bằng điều khiển từ xa. Pháo có thể bắn phát một hoặc bắn liên tục hoặc phóng loạt.

Hệ thống WM-80 có mức độ tự động hóa và thông tin hóa nhất định, phương tiện phóng có thể nhận thông tin mục tiêu từ xe chỉ huy và xe trinh sát, đồng thời sử dụng kết quả đo đạc của chính nó, để hoàn thành việc lấy phần tử mục tiêu lên bộ phận ngắm của pháo.

Hệ thống WM-80 có mức độ tự động hóa và thông tin hóa nhất định, phương tiện phóng có thể nhận thông tin mục tiêu từ xe chỉ huy và xe trinh sát, đồng thời sử dụng kết quả đo đạc của chính nó, để hoàn thành việc lấy phần tử mục tiêu lên bộ phận ngắm của pháo.

Tuy nhiên do những thiết bị trinh sát, đo đạc của WM-80 đều sử dụng công nghệ cũ, lại không có hệ thống định vị vệ tinh hỗ trợ, nên thời gian triển khai hỏa lực và độ chính xác của toàn hệ thống kém xa so với các hệ thống pháo phản lực thế hệ mới.

Tuy nhiên do những thiết bị trinh sát, đo đạc của WM-80 đều sử dụng công nghệ cũ, lại không có hệ thống định vị vệ tinh hỗ trợ, nên thời gian triển khai hỏa lực và độ chính xác của toàn hệ thống kém xa so với các hệ thống pháo phản lực thế hệ mới.

Hiện tại, pháo phản lực phóng loạt tầm xa WM-80 vẫn là hỏa lực tầm xa quan trọng nhất của Quân đội Armenia, có nhiệm vụ hỗ trợ và tấn công tầm xa cho Quân đội Armenia.

Hiện tại, pháo phản lực phóng loạt tầm xa WM-80 vẫn là hỏa lực tầm xa quan trọng nhất của Quân đội Armenia, có nhiệm vụ hỗ trợ và tấn công tầm xa cho Quân đội Armenia.

Khác với Armenia, phía Azerbaijan sử dụng các loại pháo phản lực có nguồn gốc Trung Quốc, nhưng liên doanh với quốc gia khác; trong đó có pháo Polonez được Azerbaijan nhập từ Belarus. Polonez do Belarus và Trung Quốc hợp tác phát triển, dựa trên hệ thống A-200 của Trung Quốc. Xe phóng dùng loại MZKT-7930 8×8 hạng nặng do Belarus tự sản xuất.

Khác với Armenia, phía Azerbaijan sử dụng các loại pháo phản lực có nguồn gốc Trung Quốc, nhưng liên doanh với quốc gia khác; trong đó có pháo Polonez được Azerbaijan nhập từ Belarus. Polonez do Belarus và Trung Quốc hợp tác phát triển, dựa trên hệ thống A-200 của Trung Quốc. Xe phóng dùng loại MZKT-7930 8×8 hạng nặng do Belarus tự sản xuất.

Bệ phóng pháo phản lực Polonez, giống như A200 của Trung Quốc, có thiết kế mô-đun và có thể phóng nhiều loại đạn pháo phản lực khác nhau, tùy theo yêu cầu nhiệm vụ. Trong trường hợp bình thường, Polonez sử dụng đạn không điều khiển cỡ 300mm; một hệ thống Polonez có 2 cụm ống phóng, một cụm có 4 ống phóng.

Bệ phóng pháo phản lực Polonez, giống như A200 của Trung Quốc, có thiết kế mô-đun và có thể phóng nhiều loại đạn pháo phản lực khác nhau, tùy theo yêu cầu nhiệm vụ. Trong trường hợp bình thường, Polonez sử dụng đạn không điều khiển cỡ 300mm; một hệ thống Polonez có 2 cụm ống phóng, một cụm có 4 ống phóng.

Đạn pháo phản lực không điều khiển Polonez có đường kính 300mm, tầm bắn tối đa 200 km, xa gấp đôi tầm bắn tối đa của pháo Tornado do Nga sản xuất. Một ưu điểm của pháo Polonez có thể bắn đạn có điều khiển bằng bằng quán tính, kết hợp GPS, nên sai số lệch mục tiêu chỉ từ 30 đến 50 mét.

Đạn pháo phản lực không điều khiển Polonez có đường kính 300mm, tầm bắn tối đa 200 km, xa gấp đôi tầm bắn tối đa của pháo Tornado do Nga sản xuất. Một ưu điểm của pháo Polonez có thể bắn đạn có điều khiển bằng bằng quán tính, kết hợp GPS, nên sai số lệch mục tiêu chỉ từ 30 đến 50 mét.

Một hệ thống chiến đấu của pháo Polonez bao gồm xe phóng, xe vận chuyển đạn và xe chỉ huy. Hệ thống phóng có thể nhận dữ liệu mục tiêu từ các phương tiện trinh sát khác như máy bay không người lái, radar trinh sát mục tiêu mặt đất và nối với xe chỉ huy thông qua đường liên kết dữ liệu.

Một hệ thống chiến đấu của pháo Polonez bao gồm xe phóng, xe vận chuyển đạn và xe chỉ huy. Hệ thống phóng có thể nhận dữ liệu mục tiêu từ các phương tiện trinh sát khác như máy bay không người lái, radar trinh sát mục tiêu mặt đất và nối với xe chỉ huy thông qua đường liên kết dữ liệu.

TRG-300 là loại pháo phản lực tầm xa thế hệ mới, được Azerbaijan nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ; đây là hệ thống phóng đạn phản lực bắn đạn 300mm do Thổ Nhĩ Kỳ phát triển và cải tiến trên cơ sở mẫu pháo phản lực WS-1B nhập từ Trung Quốc.

TRG-300 là loại pháo phản lực tầm xa thế hệ mới, được Azerbaijan nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ; đây là hệ thống phóng đạn phản lực bắn đạn 300mm do Thổ Nhĩ Kỳ phát triển và cải tiến trên cơ sở mẫu pháo phản lực WS-1B nhập từ Trung Quốc.

So với mẫu pháo WS-1B, cải tiến lớn nhất của TRG-300 là sử dụng khung gầm và đạn mới. Khung gầm của xe phóng TRG-300 sử dụng xe tải MAN26.372 6×6 của Đức, trọng lượng khoảng 10 tấn, có cabin được bọc thép hoàn toàn, có thể chống được đạn súng bộ binh và mảnh đạn pháo văng.

So với mẫu pháo WS-1B, cải tiến lớn nhất của TRG-300 là sử dụng khung gầm và đạn mới. Khung gầm của xe phóng TRG-300 sử dụng xe tải MAN26.372 6×6 của Đức, trọng lượng khoảng 10 tấn, có cabin được bọc thép hoàn toàn, có thể chống được đạn súng bộ binh và mảnh đạn pháo văng.

TRG-300 sử dụng loại đạn phản lực có điều khiển TR-300 có chiều dài 5,25 m, nặng 585 kg, sử dụng động cơ đẩy thuốc phóng rắn tổng hợp cho tầm bắn tối thiểu 30 km, tối đa 120 km, sai số mục tiêu dưới 50 mét.

TRG-300 sử dụng loại đạn phản lực có điều khiển TR-300 có chiều dài 5,25 m, nặng 585 kg, sử dụng động cơ đẩy thuốc phóng rắn tổng hợp cho tầm bắn tối thiểu 30 km, tối đa 120 km, sai số mục tiêu dưới 50 mét.

Hệ thống sử dụng tín hiệu vệ tinh GPS để hiệu chỉnh đường bay của đạn đạn thông qua 4 cánh ở phía trước. Điểm khác biệt duy nhất giữa bệ phóng tên lửa TRG-300 của Azerbaijan mua và phiên bản gốc là sử dụng khung gầm xe KAMAZ 8×8.

Hệ thống sử dụng tín hiệu vệ tinh GPS để hiệu chỉnh đường bay của đạn đạn thông qua 4 cánh ở phía trước. Điểm khác biệt duy nhất giữa bệ phóng tên lửa TRG-300 của Azerbaijan mua và phiên bản gốc là sử dụng khung gầm xe KAMAZ 8×8.

Hiện tại, dù là loại pháo phản lực tầm xa WM-80 với hiệu suất tương đối lạc hậu hay thế hệ pháo tầm xa mới Poronaz hay TRG-300, thì những loại pháo phản lực phóng loạt tầm xa có nguồn gốc từ Trung Quốc đều chiếm một vị trí nhất định trong trang bị của Armenia và Azerbaijan.

Hiện tại, dù là loại pháo phản lực tầm xa WM-80 với hiệu suất tương đối lạc hậu hay thế hệ pháo tầm xa mới Poronaz hay TRG-300, thì những loại pháo phản lực phóng loạt tầm xa có nguồn gốc từ Trung Quốc đều chiếm một vị trí nhất định trong trang bị của Armenia và Azerbaijan.

Video Pháo phản lực M270 nỗi khiếp sợ của Nga và thế giớ - Nguồn: QPVN

Tiến Minh

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/quan-su/diem-mat-phao-phan-luc-trung-quoc-len-loi-vao-xung-dot-nagorno-karabakh-1458069.html