Điều kiện làm bản cam kết để không bị khấu trừ thuế TNCN

Nếu người lao động chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì làm cam kết gửi tổ chức trả thu nhập để làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế.

Theo phản ánh của ông Ngô Thanh Long (Bà Rịa – Vũng Tàu), hướng dẫn khấu trừ thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với một số trường hợp khác quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC như nêu dưới đây còn chưa hợp lý:

“i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác

Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại Điểm c, d Khoản 2 Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân”.

Ông Long đưa ví dụ: Giả sử ông ký hợp đồng lao động với công ty A là 2,5 tháng và ông được nhận mức lương trả 1 lần sau khi kết thúc công việc là 8.500.000 đồng. Số tiền này nếu trang trải trong 2,5 tháng thì quá khó khăn. Nhưng ông vẫn phải đóng thuế thu nhập cá nhân thì không thể đủ sống.

Hoặc trường hợp ông là lao động làm việc cho các dự án xây dựng công việc ít, bấp bênh. Đầu tiên ông xin vào công ty A, do công việc không còn nhiều nên ông chỉ được ký hợp đồng 1 tháng với mức lương 4.000.000 đồng. Công ty A hết việc, ông thất nghiệp 2 tháng. Sau đó ông mới tìm được việc tại công ty B với mức lương 4.500.000 đồng. Công việc ở đây cũng không nhiều nên ông chỉ được ký hợp đồng 1 tháng.

Theo Điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC thì ông phải đóng thuế TNCN là = (4.000.000 + 4.500.000) * 10% = 850.000 đồng. Số tiền còn lại để ông chi tiêu trong 4 tháng chỉ còn là 7.650.000 đồng.

Với hợp đồng dưới 3 tháng, theo quan điểm của ông Long, ngoại trừ các chuyên gia... thì đa số là những lao động công việc bấp bênh, nếu áp dụng như quy định nêu trên sẽ tạo khó khăn cho người lao động.

Ông Long hỏi, đối với bản cam kết 02/CK-TNCN thì ông sẽ được miễn thuế hay hoàn thuế? Theo mẫu biên bản này tại mục công ty trả lương thì ông viết là công ty A. Sau 2 tháng thất nghiệp, ông xin việc vào công ty B thì ông phải viết thế nào cho phù hợp?

Bộ Tài chính trả lời vấn đề này như sau:

Căn cứ Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế TNCN quy định khấu trừ thuế và chứng từ khấu trừ thuế:

“1. Khấu trừ thuế ...

i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác

Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại Điểm c, d Khoản 2 Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.

Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế TNCN.

Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật Quản lý thuế.

Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết”.

Căn cứ quy định trên, nếu ông Long chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của ông Long sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì ông Long làm cam kết theo quy định gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế TNCN.

Nếu ông Long thuộc trường hợp làm cam kết theo quy định nêu trên thì ông Long phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết. Căn cứ vào cam kết của ông Long, tổ chức chi trả thu nhập không khấu trừ thuế TNCN. Ông Long phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Chinhphu.vn

Nguồn Chính Phủ: http://baochinhphu.vn/tra-loi-cong-dan/dieu-kien-lam-ban-cam-ket-de-khong-bi-khau-tru-thue-tncn/432987.vgp