Điều trị hỗ trợ sinh sản làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ lên gấp 1,5 lần
Điều trị hỗ trợ sinh sản làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ lên 1,5 lần. Tuy nhiên, việc chẩn đoán và điều trị hiện còn chồng chéo giữa chuyên khoa Sản và Nội tiết, khiến thai phụ dễ bị bỏ sót, chẩn đoán muộn, dẫn đến nguy cơ biến chứng nặng cho cả mẹ và con.
Hiện nay, bệnh đái tháo đường thuộc phạm vi điều trị của khoa Nội tiết. Riêng đái tháo đường thai kỳ lại liên quan cả hai chuyên khoa Sản và Nội tiết dẫn đến tình trạng chồng chéo, chưa được phân định rõ ràng. Khi trách nhiệm chưa được xác định, người chịu thiệt thòi cuối cùng chính là thai phụ.
TS.BS Lý Đại Lương cho biết, đáng lo ngại, nhiều thai phụ mắc đái tháo đường thai kỳ không được chẩn đoán sớm hoặc chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến những kết quả bất lợi cho cả mẹ và thai nhi.
Điển hình thai phụ P.P.A. (36 tuổi, ngụ TPHCM) nhập viện cấp cứu với tình trạng thai máy ít, tim thai chậm lúc thai được 31 tuần tuổi.

Điều trị hỗ trợ sinh sản làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ lên gấp 1.5 lần (ảnh minh họa).
Qua khai thác bệnh sử, ghi nhận sản phụ từng sinh một con, không có tiền căn đái tháo đường thai kỳ. Bệnh nhân có hai lần sẩy thai. Các kết quả khám thai trước đó đều bình thường. Tuy nhiên, đến tuần thai thứ 26, xét nghiệm dung nạp glucose đường uống (OGTT) cho thấy cả ba chỉ số (đường huyết đói, sau 1 giờ và sau 2 giờ) đều dương tính.
Bệnh nhân đã có 3 lần khám thai, ở lần đầu, bác sĩ tư vấn tiết chế chế độ ăn 1.800 kcal, theo dõi đường huyết tại nhà và tái khám nếu chỉ số không đạt mục tiêu liên tục. Kết quả tái khám cho thấy đường huyết đạt mục tiêu khoảng 50%, đến tuần thai 29 đạt 92%.
Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau lần tái khám cuối cùng với kết quả đạt 92%, bệnh nhân quay lại bệnh viện trong tình trạng thai nhi yếu dù không có bất kỳ dấu hiệu nhiễm ceton hay toan ceton, xét nghiệm ghi nhận đường huyết tăng vọt lên 500 mg/dL.
TS.BS Lý Đại Lương cho hay: "Tại thời điểm nhập viện, ghi nhận tim thai không còn, các bác sĩ buộc phải chỉ định mổ lấy thai cấp cứu. Bé trai nặng 1,6 kg được đưa ra trong tình trạng tím tái, khóc yếu".
Sau phẫu thuật lấy thai, sản phụ xuất hiện tình trạng toan chuyển hóa nặng, được chẩn đoán toan nhiễm ceton và chuyển theo dõi, điều trị tại khoa Gây mê Hồi sức. Sau 2 ngày, tình trạng của sản phụ dần cải thiện. Trong khi đó, bé trai bị suy hô hấp, được hồi sức tích cực sau đó chuyển đến Bệnh viện Nhi đồng 1.
Kết quả kiểm tra cuối cùng cho thấy thai phụ mắc đái tháo đường type 1. Trường hợp này một lần nữa cho thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa hai chuyên khoa Sản và Nội tiết đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát hiện và điều trị đái tháo đường thai kỳ.

Tỷ lệ toan nhiễm ceton trong thai kỳ ở phụ nữ mắc đái tháo đường type 1 và type 2 dao động 5–10%, trong khi ở nhóm đái tháo đường thai kỳ chỉ khoảng 0,02%. Ảnh: Phạm Thương
Bác sĩ Lương chia sẻ: "Thực tế, nhiều bác sĩ sản thường lầm tưởng bệnh nhân đã được theo dõi song song tại chuyên khoa Nội tiết, trong khi không ít thai phụ chỉ đi khám thai đơn thuần. Ngược lại, bác sĩ nội tiết cũng khó nắm được liệu bệnh nhân có tuân thủ lịch tái khám hay không. Sự thiếu kết nối này tiềm ẩn nhiều nguy cơ, và người chịu hậu quả trực tiếp chính là mẹ và thai nhi".
Theo đó, cần có quy trình phối hợp giữa hai chuyên khoa để đảm bảo thai phụ vừa tuân thủ chỉ định của bác sĩ sản, vừa được quản lý chặt chẽ bởi bác sĩ nội tiết. Bởi bản thân thai kỳ đã là yếu tố nguy cơ thúc đẩy người bệnh rơi vào tình trạng toan nhiễm ceton, bên cạnh các yếu tố khác như nghén nặng, nhiễm trùng, chấn thương, phẫu thuật, bỏ điều trị insulin hoặc sử dụng corticoid…
Theo thống kê, tỷ lệ toan nhiễm ceton trong thai kỳ ở phụ nữ mắc đái tháo đường type 1 và type 2 dao động 5–10%, trong khi ở nhóm đái tháo đường thai kỳ chỉ khoảng 0,02%.
Đáng chú ý, điều trị hỗ trợ sinh sản làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ lên gấp 1,5 lần. Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu nào chứng minh phụ nữ điều trị hỗ trợ sinh sản và mắc đái tháo đường thai kỳ có nguy cơ toan nhiễm ceton cao hơn so với phụ nữ mang thai tự nhiên.
Các chuyên gia lưu ý, phụ nữ mắc đái tháo đường thai kỳ vẫn có nguy cơ nhiễm ceton, nhất là khi đường huyết trong thai kỳ thấp hơn bình thường. Vì vậy, bác sĩ khuyến cáo cần chỉ định tầm soát khi thai phụ có dấu hiệu bất thường.
Triệu chứng kinh điển của nhiễm ceton axit gồm: Đau bụng, buồn nôn, nôn, tiểu nhiều, nhìn mờ, yếu cơ, buồn ngủ, thay đổi tri giác… Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp chỉ có biểu hiện thai máy yếu hoặc nhịp tim thai bất.
Một nghiên cứu năm 2024 cho thấy, khoảng 30% trường hợp thai phụ bị nhiễm ceton khó được chẩn đoán sớm, trong đó có tới 35% dẫn đến thai tử vong, còn tử vong mẹ ít gặp. Khi rà soát lại, đa số bệnh nhân thực chất mắc đái tháo đường type 1 nhưng ban đầu bị chẩn đoán nhầm là đái tháo đường thai kỳ.
Theo khuyến cáo của Viện Quốc gia về Sức khỏe và Chăm sóc Sức khỏe (NICE), phụ nữ mắc đái tháo đường nên lập kế hoạch mang thai dưới sự hỗ trợ của chuyên gia nội tiết, kiểm soát HbA1C dưới 6,5% trước khi có thai. Trong suốt thai kỳ, thai phụ cần được trang bị máy đo đường huyết tại nhà, điều trị và quản lý phối hợp chặt chẽ giữa bác sĩ sản và bác sĩ nội tiết, đồng thời được tư vấn đầy đủ về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo toan nhiễm ceton.