Dingo - Loài động vật kiên cường nhất trong thiên nhiên hoang dã của Châu Úc!
Châu Úc là nơi ẩn náu của vô số loài động vật hoang dã độc đáo, thiên nhiên hoang dã của lục địa này cũng tồn tại vô số mối nguy hiểm khác nhau và sự cạnh trang dường như lúc nào cũng khốc liệt.
Trong vùng đất kỳ diệu này, theo bạn đâu mới là loài động vật mạnh mẽ, kiên cường nhất? Lục địa này không hề có hổ, sư tử hay những con báo hoa mai, thay vào đó loài động vật kiên cường nhất lại là một loài trông rất giống chó nhà và chúng là kẻ săn mồi mạnh mẽ nhất trong thiên nhiên hoang dã của Châu Úc.
Chúng là những con dingo, hay còn được gọi là chó dingo, với tên tiếng Latinh là Canis dingo. Dù có vẻ ngoài rất giống cho nhà, thế nhưng dingo lại là một loài động vật vô cùng đặc biệt. Chúng nằm giữa "chó sói" và "chó nhà", nên hiển nhiên loàiđông vật này không phải chó sói cũng chẳng phải chó nhà, và được xếp vào một phân loài riêng biệt của họ Canidae. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề còn nhiều tranh cãi.
Một số coi chúng là một loài riêng biệt vì một loạt các đặc điểm phân biệt chúng với chó nhà. Những người khác tin rằng dingo ban đầu là những con chó nhà nhưng sau đó đã trở thành loài hoang dã.
Tuy nhiên luôn có một ý kiến đồng nhất giữa những người nông dân ở Úc là họ rất ghét loài vật này và luôn coi chúng là những tên đạo chích chuyên săn trộm gia súc của họ.
Mặt khác, một số nhà sinh thái học đã chỉ ra rằng loài chó hoang này là thần hộ mệnh của hệ sinh thái Châu Úc, và việc giết chúng có thể dẫn đến những hậu quả không thể cứu vãn.
Những con Dingo này đến từ đâu? Thổ dân Úc đến Úc khoảng 50.000 năm trước. Nhưng vào thời điểm đó, không có loài chó nào trên lục địa Australia. Phải đến hàng nghìn năm trước loài Dingo mới thực sự đi vào lịch sử của nước Úc.
Bằng chứng nghiên cứu hiện đại đã xác nhận rằng chó Dingo có nguồn gốc từ những con chó được thuần hóa ở Đông Á. Với sự mở rộng của văn hóa Austronesian, những con chó Dingo đã đến Úc bằng thuyền hoặc bè của những người di cư qua Đông Nam Á và Indonesia. Những người định cư này có thể đã mang chúng đến lục địa này như một loại thực phẩm hoặc công cụ săn bắn.
Hộp sọ chó Dingo sớm nhất được tìm thấy ở Việt Nam, cách đây khoảng 5.500 năm. Tại các khu vực khác của Đông Nam Á, hóa thạch dingo có lịch sử từ 5.000 đến 2.500 năm cũng đã được tìm thấy. Trên lục địa Australia, những ghi chép sớm nhất về loài chó này có thể được tìm thấy cách đây 3.500 năm. Vì vậy, có lẽ, loài Dingo tại Úc đã bị cô lập với các loài chó khác trong ít nhất 3.500 năm trước khi vị Châu Âu thuộc địa hóa vào thế kỷ 18.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngay khi đặt chân đến Úc, chúng đã nhanh chóng hòa nhập vào hệ sinh thái địa phương, thậm chí còn lấn át cả những loài săn mồi hàng đầu ở Úc vào thời điểm đó.
Vào thời điểm đó, Úc đã bị cô lập với thế giới hàng chục triệu năm, và các loài động thực vật tại lục địa này đã tiến hóa để trông hoàn toàn khác so với họ hàng của chúng ở các lục địa khác. Do những thay đổi mạnh mẽ của môi trường và các lý do khác, các loài động vật có nhau thai lớn lần lượt bị tuyệt chủng, và lục địa Úc trở thành thế giới của các loài thú có túi.
Và trên đất liền cằn cỗi, loài thú có túi hiện đã tuyệt chủng - thylacine - hổ Tasmania đã trở thành kẻ săn mồi hàng đầu, từng thống trị Australia và các đảo lân cận.
Tuy nhiên, những con chó Dingo đã nhanh chóng vượt qua loài săn mồi bản địa và trở thành loài đứng đầu chuỗi thức ăn. Một quan điểm phổ biến cho rằng chính sự xuất hiện của Dingo đã khiến số lượng của loài thylacine suy giảm. Vì Dingo và thylacine là 2 loài có mối quan hệ cạnh tranh, nên thylacine buộc phải rút lui về Tasmania để tồn tại, và cuối cùng đã bị tuyệt chủng dưới bàn tay của con người.
So với thylacines, chó Dingo là những kẻ cơ hội đích thực, chúng sống theo nhóm, đoàn kết, linh hoạt và rất thông minh. Đối với các loài động vật có vú nhỏ, chúng có thể đơn độc chiến đấu, nhưng nếu gặp phải những con mồi lớn hơn nhiều so với kích thước của bản thân, chúng sẽ lập thành các băng nhóm và săn mồi theo bầy đàn. Vì vậy, đối tượng săn bắt của chúng không bị giới hạn.
Về tập quán sống, tập tính săn mồi và cấu trúc xã hội, chó Dingo lại giống chó sói hơn chó nhà. Tất cả chúng đều có hệ thống phân cấp nghiêm ngặt, chúng hiếm khi giao phối tự do như chó nhà.
Ngoài ra, tiếng sủa của chó Dingo cũng rất khác thường, chúng không sủa như chó nhà mà giống tiếng sói tru hơn. Nhưng chúng có thể dễ thích nghi hơn sói và có thể sống trong nhiều môi trường khác nhau như rừng, sa mạc, đồng cỏ và cao nguyên.
Tuy nhiên, việc chúng là chó sói hay chó vẫn còn gây tranh cãi. Phần lớn tranh cãi này nằm ở việc các nhà sử học không thể xác định liệu chó Dingo đã từng được thuần hóa hay chưa, liệu chúng là động vật thuần hóa bỏ trốn hay động vật chưa bao giờ được thuần hóa.
Tại sao chó nhà lại được con người thuần hóa? Ở một mức độ nào đó, đây là sự sẵn sàng được thuần hóa của loài chó nhà đối với con người. Tuy nhiên, con người gặp rất nhiều khó khăn để làm điều này với loài Dingo.
Trên thực tế, nhiều người dân bản địa đã từng bắt chó con hoang dã về nuôi, nhưng sau khi chó Dingo trưởng thành, chúng sẽ tách khỏi xã hội loài người, trở về với tự nhiên và sinh sản.
Ngoài ra, thổ dân Úc cũng đã cố gắng huấn luyện những con Dingo để hỗ trợ săn những con thú nhỏ, nhưng họ hiếm khi thành công trong việc huấn luyện những con Dingo để hỗ trợ săn những con thú lớn. Nguyên nhân là do chó Dingo vẫn giữ bản năng săn mồi mạnh mẽ và có khả năng nghe lời cực kỳ kém. Ngoài việc dễ dàng hù dọa con mồi, chúng còn nuốt chửng con mồi khi thợ săn không chú ý.
Tất nhiên, những con chó Dingo và thổ dân cũng có mỗi quan hệ nhất định và ảnh hưởng lẫn nhau, hình ảnh của chúng đã thâm nhập vào cuộc sống của thổ dân, thần thoại tôn giáo và các khía cạnh khác.
Ví dụ, các nhóm chó Dingo sống gần các trại có thể hoạt động như những người bảo vệ và khi người lạ đến gần, chúng có thể phát ra một loại tiếng sủa đặc biệt, hoạt động như một cảnh báo. Ngoài ra, thổ dân thường sử dụng xuồng ba lá làm "chăn đắp" để giữ ấm vào những đêm lạnh giá.
Tuy nhiên, những công dụng này rất hạn chế so với những con chó nhà mà chúng ta quen thuộc. Người ta thường tin rằng mối quan hệ giữa loài Dingo và người bản địa là mối quan hệ hợp tác lỏng lẻo. Nói cách khác, đây chỉ là giai đoạn thuần hóa ban đầu, và nó không thể được coi là một quá trình thuần hóa thực sự.
Ngoài ra, để thích nghi với thói quen ăn uống của con người, chó nhà đã tiến hóa khả năng tiêu hóa tinh bột rất mạnh, có nhiều gen liên quan đến tiêu hóa tinh bột. Nhưng Dingo, giống như sói, chúng hoàn toàn thiếu gen để tiêu hóa tinh bột.
Theo sự so sánh của các hóa thạch thời kỳ đầu, người ta cũng thấy rằng hình dạng của chó dingo không thay đổi trong hàng nghìn năm. Nó cũng cho thấy rằng loài Dingo không được lựa chọn để lai tạo trong suốt thời gian dài này.
Trên thực tế, từ những thay đổi gây ra bởi sự xuất hiện của những người thực dân Châu Âu, loài Dingo đã buộc phải thay đổi theo tác động của con người. Từ thế kỷ 18, khi các khu định cư ban đầu của thổ dân bị phá vỡ, những con Dingo buộc phải trốn vào bụi rậm và sống một cuộc sống hoang dã hoàn toàn.
Mặt khác, thực dân Châu Âu cũng đưa những con chó nhà thích hợp hơn để sống chung với con người. Người dân ở Australia sau đó cũng dần từ bỏ con dingo khó nuôi.
Đã có lúc tầng lớp thượng lưu ở Sydney nghĩ rằng sẽ rất tuyệt nếu nuôi chó Dingo làm thú cưng, giống như những người giàu nhất Dubai nuôi sư tử và báo hoa mai. Nhưng họ sớm phát hiện ra rằng chó Dingo không phải là vật nuôi thích hợp khi chúng đã lớn và rất nguy hiểm.
Ngoài ra, sự đô hộ của người Châu Âu da trắng cũng dẫn đến sự phát triển của các trang trại chăn nuôi trên khắp nước Úc vào thế kỷ 19. Với sự phát triển của chăn nuôi, cuộc chiến giữa chó Dingo và dân địa phương chính thức bắt đầu.
Thay vì bắt những con thỏ rừng ít thịt và chạy nhanh, hoặc những con kanguru đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp của bầy đàn, những con Dingo thích những con vật nuôi trong trang trại vì chúng dễ dàng săn bắt hơn nhiều. Đôi khi một con Dingo có thể giết hoặc làm bị thương hàng trăm con gia súc chỉ trong một cuộc tấn công.
Bản năng của hầu hết tất cả các loài thuộc họ chó là đuổi theo và cắn tất cả các động vật đang chạy. Và những con vật bị cắn đó có rất ít cơ hội sống sót.
Vào những năm 1920, để ngăn chặn sự xâm lược của chó Dingo, Australia còn cho xây dựng một trong những công trình kiến trúc dài nhất thế giới, đó là Hàng rào rào chắn Dingo.
Hàng rào kéo dài 5.616 km, dài gần bằng từ London đến New York, và tốn khoảng 10 triệu USD mỗi năm để duy trì nó. Ban đầu, những hàng rào này sinh ra để ngăn chặn thỏ rừng giẫm nát đất nông nghiệp. Sau đó, trên cơ sở của hàng rào này, chính phủ Úc đã cho xây dựng thêm một hàng rào khác để ngăn chặn loài Dingo.
Mặc dù trong những năm qua, loài Dingo vẫn được mọi người coi là loài vật mạnh mẽ. Nhưng các quần thể Dingo đã thực sự giảm sau khi bị con người săn bắn và ngăn chặn rộng rãi.
Tuy nhiên, một số nhà sinh thái học cho rằng dingo là loài vật bảo vệ sinh thái của Australia. Hàng nghìn năm cách ly và quá trình tiến hóa độc lập đã khiến chó Dingo trở thành một phần không thể thiếu của hệ sinh thái bản địa, và chúng được tìm thấy trên toàn bộ lục địa Úc, ngoại trừ Tasmania.
Trong một thời gian dài, nhiều loài động vật ăn thịt ngoại lai cỡ trung bình như cáo đỏ và mèo hoang đã bị đàn áp, săn bắt và giết chết bởi chó Dingo. Nếu loài Dingo bị giết thì có thể gây ra những hủy hoại nghiêm trọng đối với môi trường sinh thái.
Nhưng hiện tại, mối đe dọa lớn nhất đối với loài Dingo không phải là sự săn bắt của con người. Nếu nhìn từ góc độ là một phân loài riêng biệt, cuộc khủng hoảng của chúng là do "lai tạp" nhiều hơn.
Ngày nay, trong tất cả các quần thể chó Dingo ở Úc, luôn có sự lai tạo giữa chó Dingo và chó nhà. Ngoài ra, gen và hộp sọ của chúng, không thay đổi nhiều trong hàng nghìn năm, cũng đã thay đổi. Do dó, việc tìm và phát hiện ra một con Dingo thuần chủng là vô cùng khó khăn.