Định hướng ESG của Việt Nam trong tiến trình toàn cầu
ESG đang thay đổi với những chuyển dịch ở cấp độ toàn cầu và khu vực. Việt Nam đã có những cam kết để thực hành ESG nhưng vẫn cần những hành động thực chất...

ESG là xu hướng tất yếu trên toàn cầu và Việt Nam. Ảnh: PwC Việt Nam.
ESG đã trở thành xu hướng tất yếu trên toàn cầu. Đối với Việt Nam, báo cáo khảo sát tiến trình thực hành ESG năm 2025 do PwC Việt Nam công bố ngày 23/9 đã phản ánh sự chuyển dịch toàn cầu trong câu chuyện ESG đang hội tụ với định hướng quốc gia rõ ràng về tăng trưởng xanh, mở ra không chỉ những cơ hội sâu rộng mà còn đặt ra lời kêu gọi hành động cấp thiết đối với cộng đồng doanh nghiệp.
ĐỊNH HƯỚNG ESG TOÀN CẦU VÀ KHU VỰC ĐẦY BIẾN ĐỘNG
Theo báo cáo, câu chuyện ESG toàn cầu ngày càng được định hình bởi sự phân hóa rõ rệt. Liên minh châu Âu đang dẫn đầu với việc ban hành các quy định toàn diện như Chỉ thị Báo cáo Phát triển Bền vững Doanh nghiệp (CSRD) và Chỉ thị Thẩm định Tính bền vững của Doanh nghiệp (CSDDD), với tác động lan tỏa trên toàn thế giới. Ngược lại, Hoa Kỳ lại thể hiện một bức tranh phân mảnh hơn, tạo nên một mức độ bất định nhất định.
Trong khi đó, các thị trường châu Á - Thái Bình Dương như: Nhật Bản, Singapore và Úc đang áp dụng khung ESG với tốc độ khác nhau, thường điều chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế nhưng vẫn phù hợp với ưu tiên địa phương.
Tại khu vực Mỹ Latinh và châu Phi, việc áp dụng ESG đang tăng lên, chủ yếu do áp lực từ nhà đầu tư và yêu cầu của thương mại quốc tế, dù việc thực thi quy định vẫn còn chưa đồng đều.

ESG đã trở thành xu hướng tất yếu trên toàn cầu.
Tuy nhiên, một xu hướng chung đang hiện rõ: thời đại của những cam kết tự nguyện đã qua. "Chúng ta đang bước vào thời kỳ mà thông tin ESG phải được công bố bắt buộc, dựa trên dữ liệu và được kiểm chứng độc lập," báo cáo nhấn mạnh.
"Các cơ quan quản lý đang mạnh tay hơn với các hành vi “tẩy xanh” (greenwashing) và yêu cầu bằng chứng xác thực về tính bền vững trên toàn bộ chuỗi cung ứng. Kỷ nguyên mới này đòi hỏi hành động thực chất, khiến bối cảnh toàn cầu trở nên phức tạp hơn bao giờ hết đối với các doanh nghiệp", báo cáo nêu.
Từ thực tế đó, ông Nguyễn Hoàng Nam, Lãnh đạo Dịch vụ Tư vấn ESG Phó Tổng Giám đốc PwC Việt Nam khẳng định ESG đã trở thành xu hướng tất yếu. "Đối với mỗi doanh nghiệp, trong quá trình hoạch định và vận hành, cần nhận diện rõ rủi ro và cơ hội. ESG vừa là thách thức, vừa là cơ hội để phát triển bền vững", ông Nam nhấn mạnh.
VIỆT NAM TRONG NỖ LỰC CHUNG CỦA TOÀN CẦU - TỪ THAM VỌNG ĐẾN KHOẢNG CÁCH THỰC THI
Theo ông Nam, kinh tế Việt Nam là nền kinh tế xuất khẩu với quy mô lớn, đặc biệt phụ thuộc vào các thị trường EU, Mỹ và châu Á. Khi các nước áp dụng các chính sách thuế mới, quy định mới, đã tạo ra rủi ro đáng kể cho doanh nghiệp Việt.
Chính vì vậy, ông Nam cho rằng "việc tiếp cận ESG phải được nhìn nhận không chỉ là yêu cầu tuân thủ, mà còn là chiến lược quản lý rủi ro để duy trì vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu."
Cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26) đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chính sách khí hậu của Việt Nam.
Kể từ đó, Chính phủ đã có những bước đi quyết đoán, chuyển từ tham vọng sang hành động, thông qua việc thiết lập khung chính sách vững chắc với Đóng góp do Quốc gia Tự quyết định cập nhật (NDC 2.0) và Kế hoạch Thích ứng Biến đổi Khí hậu Quốc gia toàn diện được ban hành vào tháng 11 năm 2024.
"Theo khảo sát khu vực, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á – bao gồm cả Việt Nam đều khó đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2030, thậm chí có nước như Indonesia còn tăng phát thải. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về hành động thực chất, thay vì chỉ dừng ở cam kết.
Ngoài ra, Chính phủ cũng đã triển khai hàng loạt sáng kiến - bao gồm thí điểm thị trường carbon, thúc đẩy năng lượng tái tạo, và ban hành nhiều quy định liên quan.
Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể về chính sách, báo cáo cũng nhấn mạnh việc triển khai vẫn còn nhiều hạn chế. Phân tích của Ngân hàng Thế giới cho thấy các chính sách hiện tại - bao gồm Quy hoạch phát triển điện VIII - chỉ có thể giúp giảm phát thải khoảng 55%, vẫn chưa giúp đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0.
Trong ngắn hạn, Việt Nam dự kiến chỉ đạt mức giảm 38% vào năm 2030, thấp hơn so với cam kết 43,5%. Khoảng cách này phản ánh sự chênh lệch giữa tham vọng chính sách và năng lực thực thi.
"Việt Nam đang đối mặt với một số thách thức mang tính cấu trúc trong nỗ lực thu hẹp khoảng cách này," báo cáo nêu rõ.
"Cường độ phát thải cao trên mỗi đơn vị GDP phản ánh sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng, cho thấy nhu cầu cấp thiết phải tách được sự tăng trưởng kinh tế khỏi việc gia tăng phát thải khí nhà kính. Tiến độ chuyển đổi cũng đang bị chậm lại bởi các yếu tố như: hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ sạch, năng lực thể chế chưa đáp ứng yêu cầu, khó khăn trong tiếp cận nguồn tài chính và sự phối hợp chưa đồng bộ giữa các cấp chính quyền."
Việt Nam đang chuẩn bị NDC 3.0 cho giai đoạn 2026- 2035, dự kiến hoàn thiện trước COP30 vào cuối năm 2025. Phiên bản mới này được kỳ vọng sẽ nâng cao mức độ tham vọng và đưa ra lộ trình rõ ràng hơn về triển khai và tài chính.
Để thu hẹp khoảng cách hiện tại, Việt Nam cần không chỉ tăng cường sự đồng bộ trong chính sách và cải cách thể chế, mà còn đẩy nhanh đầu tư vào công nghệ, nâng cao năng lực và thúc đẩy hợp tác quốc tế.
"Theo khảo sát khu vực, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á – bao gồm cả Việt Nam – đều khó đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2030, thậm chí có nước như Indonesia còn tăng phát thải," ông Nam chia sẻ. "Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về hành động thực chất, thay vì chỉ dừng ở cam kết."
Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/dinh-huong-esg-cua-viet-nam-trong-tien-trinh-toan-cau.htm