Đỗ Đình Mai bị tạm giữ hình sự

Sau khi khảo sát các căn nhà trong chợ Hồng Ngự, đến đêm khuya, Đỗ Đình Mai đã thực hiện âm mưu đen tối của mình.

Ngày 26/12/2025, theo Cổng TTĐT Công an tỉnh Đồng Tháp: Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp cho biết đang tạm giữ hình sự Đỗ Đình Mai, sinh năm 1967, nơi thường trú phường Bình Chiểu, Thành phố Hồ Chí Minh (hiện tạm trú ở phòng trọ số 2, nhà trọ Ngọc Tú, xã Thoại Sơn, tỉnh An Giang) để điều tra về hành vi trộm cắp tài sản.

Cơ quan Công an đang kiểm tra tiền và trang sức mà Mai trộm

Cơ quan Công an đang kiểm tra tiền và trang sức mà Mai trộm

Qua làm việc, đối tượng khai nhận đã đến khu vực phường Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 23/12/2025 và khảo sát các căn nhà trong chợ Hồng Ngự rồi chờ đêm khuya để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Khung cửa sổ bị Mai kéo gãy để chui vào nhà trộm tài sản

Khung cửa sổ bị Mai kéo gãy để chui vào nhà trộm tài sản

Đến khoảng 02 giờ sáng, ngày 24/12/2025, Mai mang theo kìm cắt lưới B40 đi vào trong hẻm, đến căn nhà thuộc Khóm 4, phường Hồng Ngự, đối tượng dùng mỏ lết răng để kẹp và bẻ lấy 02 thanh sắt cửa sổ để chui vào nhà, lục soạn lấy trộm nhiều xấp tiền 500 ngàn đồng, các loại tiền mệnh giá khác cùng nhiều vàng nữ trang, sau đó tẩu thoát bằng lối đi trước đó đã đột nhập vào.

Số dụng cụ Mai dùng để cắt lưới và khung cửa sổ để chui vào nhà trộm cắp tài sản

Số dụng cụ Mai dùng để cắt lưới và khung cửa sổ để chui vào nhà trộm cắp tài sản

Nhận được tin báo của bị hại, Công an phường Hồng Ngự tiến hành thông tin đến Tổ công tác điều tra hình sự, đấu tranh phòng chống tội phạm Khu vực số 4 tiến hành khám nghiệm hiện trường, truy xét theo dấu vết “nóng”.

Qua làm việc, bị hại khai mất tiền và nữ trang tổng giá trị khoảng 01 tỷ đồng. Bằng các biện pháp nghiệp vụ, đến 15 giờ ngày 25/12/2025 Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp phối hợp với Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh An Giang và Công an xã, phường ở tỉnh An Giang đã bắt giữ đối tượng Mai tại phòng trọ số 2, nhà trọ Ngọc Tú, đường Nguyễn Văn Trỗi, ấp Đông Sơn 2, xã Thoại Sơn, An Giang.

Tang vật thu giữ gồm 613 triệu đồng và nhiều nữ trang kim loại màu vàng. Được biết, Mai có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản, mới ra tù vào năm 2024 thì lại tiếp tục phạm tội./.

1. Tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật Hình sự
1.1. Cấu thành tội phạm tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật Hình sự
* Chủ thể:

- Theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu các khung hình phạt rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng của tội trộm cắp tài sản. (Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017)

* Khách thể:

Khách thể của tội trộm cắp tài sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân.

* Mặt khách quan

- Về mặt hành vi: Hành vi phạm tội này có mang tính chất chiếm đoạt tài sản nhưng sự chiếm đoạt ở đây được thực hiện bằng hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của cá nhân, tổ chức quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan như chen lấn, xô đẩy,...nhằm tiếp cận cá nhân, tổ chức để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

- Về mặt hậu quả: Hậu quả của tội trộm cắp tài sản là gây ra thiệt hại về giá trị tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp. Tài sản bị trộm cắp có thể là các loại tiền, hàng hóa, giấy tờ có giấy trị thanh toán (ngân phiếu, công trái,...)

Lưu ý: Chỉ những giá trị tài sản bị trộm cắp từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm tội trộm cắp tài sản; còn nếu tài sản trộm cắp có trị giá dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo các điều kiện khác.

* Mặt chủ quan

- Đây là lỗi cố ý, tức người phạm tội nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản nhất định hoặc có thể gây ra thiệt hại về tài sản cho người khác nhưng lại mong muốn hoặc cố ý bỏ mặc hậu quả đó xảy ra với đối tượng bị trộm cắp.

- Mục đích: Mong muốn chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức.

1.2. Hình phạt với tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật Hình sự
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), cụ thể như sau:

* Khung 1:

Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

+ Tài sản là di vật, cổ vật.

* Khung 2:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

+ Có tổ chức;

+ Có tính chất chuyên nghiệp;

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

+ Hành hung để tẩu thoát;

+ Tài sản là bảo vật quốc gia;

+ Tái phạm nguy hiểm.

* Khung 3:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

* Khung 4:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

* Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

2. Mức phạt hành chính đối với hành vi trộm cắp tài sản
Đối với cá nhân thực hiện hành vi trộm cắp tài sản lần đầu, không gây ra hậu quả nghiêm trọng về giá trị tài sản (cụ thể là dưới 2.000.000 đồng) và chưa bị kết án về các tội về chiếm đoạt tài sản thì người thực hiện hành vi vi phạm chỉ bị xử phạt hành chính

Cụ thể tại Điểm a Khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp tài sản, xâm nhập vào khu vực nhà ở, kho bãi hoặc địa điểm khác thuộc quản lý của người khác nhằm mục đích trộm cắp, chiếm đoạt tài sản.

Như vậy, cá nhân có hành vi trộm cắp tài sản chỉ có thể bị truy cứu TNHS về tội trộm cắp tài sản khi hành vi đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017).

Mỹ Hạnh (t/h)

Nguồn Góc nhìn pháp lý: https://gocnhinphaply.nguoiduatin.vn/do-dinh-mai-bi-tam-giu-hinh-su-30339.html