Đo lường văn hóa, đạo đức kinh doanh để nâng chuẩn doanh nghiệp Việt
Việt Nam hướng tới xác định Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh, từ đó áp dụng phù hợp theo tính chất, đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp.
Chuẩn mực văn hóa kinh doanh cần gần với văn hóa dân tộc
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ nhằm nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị quốc tế. Yêu cầu đặt ra không chỉ dừng lại ở tăng trưởng nhanh mà đòi hỏi chuyển dịch sang tăng trưởng chất lượng, sáng tạo, bền vững, dựa trên nền tảng thể chế minh bạch, quản trị hiện đại và giá trị văn hóa - đạo đức trong kinh doanh.
Đặc biệt, khu vực kinh tế tư nhân - lực lượng chiếm trên 98% tổng số doanh nghiệp, đóng góp khoảng 45% GDP và là động lực quan trọng của nền kinh tế đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh, củng cố niềm tin xã hội và xây dựng văn hóa doanh nghiệp phù hợp tiêu chuẩn quốc tế. Điều này trở nên càng quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đối mặt nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình nếu không phát triển dựa trên nền tảng đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội và bản sắc văn hóa dân tộc.

Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - ông Lê Hải Bình phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Xuân Trường
Trước bối cảnh đó, chiều ngày 1/12, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức Hội thảo "Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh gần với bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp cận được tinh hoa văn hóa kinh doanh thế giới".
Phát biểu khai mạc hội thảo, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - ông Lê Hải Bình bày tỏ quan điểm về sự cấp thiết xây dựng chuẩn mực đạo đức và văn hóa kinh doanh gần với bản sắc. “Trong Nghị quyết số 68-NQ/TW và sau đó là trong chương trình hành động của Chính phủ có một yêu cầu rằng chúng ta phải hình thành những chuẩn mực đạo đức và văn hóa kinh doanh của người Việt, doanh nhân Việt sao cho vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu được tinh hoa văn hóa kinh doanh của thế giới” - ông Bình cho hay.
Mặt khác, theo ông Lê Hải Bình, văn hóa kinh doanh dân tộc có những biểu hiện rất hay, được truyền lại qua rất nhiều thế hệ. Thậm chí có những truyền thuyết mà chúng ta học từ nhỏ mang lại những cảm nhận về cách làm sau này của các vị danh nhân nhưng đồng thời, chúng ta cũng thấy có những điều chưa thực sự tốt. Đặc biệt trong quá trình hội nhập quốc tế, mà đi đầu là hội nhập kinh tế quốc tế, có rất nhiều điều liên quan đến pháp luật, đến chuẩn mực, chúng ta phải rà soát, phải điều chỉnh.
Vì vậy, theo ông Lê Hải Bình việc hình thành những chuẩn mực đạo đức và văn hóa kinh doanh này cần sự minh bạch, hiệu quả, thượng tôn pháp luật cho đến trách nhiệm xã hội. Theo đó, làm sao để việc làm đó xanh hơn, bền vững hơn; hoạt động doanh nghiệp đóng góp vào việc duy trì và củng cố cả môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa, môi trường kinh doanh.
Cũng tại hội hội thảo, PGS. TS Nguyễn Thị Thu Phương - Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam chia sẻ, bối cảnh hiện nay khiến việc xây dựng chuẩn mực đạo đức kinh doanh trở nên cấp thiết, đó là thu nhập, nền tảng phát triển của đất nước thay đổi. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với thực trạng gây hoang mang như gian lận, thiếu minh bạch, bất cập trong kinh doanh diễn ra ở nhiều nơi, ảnh hưởng đến niềm tin xã hội và uy tín quốc gia.
Do vậy, theo PGS. TS Nguyễn Thị Thu Phương, cần tập trung vào những vấn đề liên quan đến thể chế và doanh nghiệp. Hiện còn tồn tại các văn bản pháp luật chồng chéo; đặc biệt là những văn bản liên quan đến gian lận thương mại, chống hàng giả, hàng nhái, bảo vệ người tiêu dùng, thương mại điện tử, cùng các chế tài xử phạt chưa thật sự chính xác. Vì vậy, cần tạo ra một cơ chế minh bạch hơn và hoàn thiện tổ chức bộ máy quản trị công nhằm đảm bảo tính đồng bộ.
Ngoài ra, cần hướng đến khả năng hình thành một hệ sinh thái đạo đức kinh doanh, được áp dụng trên nhiều cấp độ khác nhau từ hộ kinh doanh, ngành hàng cho tới cấp độ xã hội rộng hơn; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm, tham gia mạng lưới doanh nghiệp toàn cầu; tăng cường ứng dụng công nghệ số trong minh bạch văn hóa doanh nghiệp, thông tin hợp đồng, giao dịch, phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia về văn hóa kinh doanh, đánh giá doanh nghiệp trên phạm vi ngành và lĩnh vực.

Hội thảo "Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh gần với bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp cận được tinh hoa văn hóa kinh doanh thế giới". Ảnh: Xuân Trường
Hướng tới chuẩn mực quốc gia về đạo đức, văn hóa kinh doanh
Trên tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đồng thời phù hợp với định hướng xây dựng hệ giá trị quốc gia và chuẩn mực con người, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang nghiên cứu, xây dựng Đề án "Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh gắn với bản sắc dân tộc và tiếp cận tinh hoa văn hóa kinh doanh thế giới".
Theo đó, hiện Bộ khung "Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh" được được xây dựng trên nền tảng bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp cận chọn lọc tinh hoa quốc tế. Cấu trúc bộ khung được định hình bởi bốn cấu phần giá trị nền tảng: Chuẩn mực đạo đức - Văn hóa kinh doanh - Bản sắc dân tộc - Tiếp cận tinh hoa quốc tế. Trên cơ sở đó, lộ trình tiếp theo sẽ hướng tới xác định Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh và Chỉ số Chuẩn mực đạo đức và văn hóa kinh doanh như công cụ đo lường mức độ thực hành chuẩn mực, từ đó áp dụng phù hợp theo tính chất, đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp trong cộng đồng doanh nghiệp.
Nêu ý kiến về bộ "Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh", bà Bùi Việt Hà - Giám đốc Đối ngoại và Quan hệ công chúng - Tập đoàn Yeah 01 cho hay, mỗi quốc gia đều có cách ứng xử và trong văn hóa kinh doanh. Vì thế, trong đề cương của ban soạn thảo có một ý rất hay: “Nếu triển khai thành công, Việt Nam có thể hình thành một “thương hiệu mềm quốc gia” vừa khẳng định bản sắc dân tộc, vừa nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu". Đây là một hướng tiếp cận rất đáng mong đợi và cũng là lý do doanh nghiệp muốn hiểu rõ hơn về “thương hiệu mềm quốc gia” mà chúng ta muốn xây dựng cho doanh nghiệp Việt Nam sẽ có hình hài như thế nào?
Bên cạnh đó, vấn đề được bà Bùi Việt Hà nêu đó là văn hóa đúng giờ ở doanh nghiệp. Nhiều nơi, kể cả doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, họp ấn định giờ nhưng cứ trễ 15 đến 30 phút vì “sếp bận” và 30 con người ngồi chờ không ai dám phản ứng. Nhưng làm sao để “giờ cao su” không trở thành một “thương hiệu” của doanh nghiệp Việt Nam? Chính vì thế rất mong Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có thể làm rõ hơn về tiêu chí, hình mẫu hay bộ giá trị của “thương hiệu mềm quốc gia”.
GS.TS Từ Thị Loan - Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam cho rằng, đạo đức kinh doanh không phải là một khái niệm tách rời, mà nằm trong cấu trúc chung của văn hóa kinh doanh. Trong văn hóa kinh doanh đã bao gồm văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, văn hóa lãnh đạo, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội… Tất cả đều là những bộ phận tạo nên hệ sinh thái văn hóa kinh doanh. Vì vậy, cách gọi tên nhóm, cấu phần hay tiêu chí của Bộ "Chuẩn mực quốc gia về đạo đức, văn hóa kinh doanh" phải hoàn toàn nhất quán với hệ thống khái niệm đã được khoa học chứng minh và giảng dạy rộng rãi.
Đặc biệt, theo GS.TS Từ Thị Loan khi xây dựng và ban hành một bộ chuẩn mực mang tính quốc gia, điều quan trọng nhất là phải rà soát thật kỹ lưỡng về thuật ngữ, tính khoa học và độ chính xác. Đồng thời, những doanh nghiệp lớn như FPT, Vingroup, Sun Group, Viettel hay Trí Việt hiện đều có bộ tiêu chí văn hóa kinh doanh nội bộ rất bài bản và đầy đủ. Do đó, "nếu bộ chuẩn quốc gia lần này chưa thực sự chuyên nghiệp, còn sơ hở hoặc thiếu chuẩn chỉnh sẽ khó nhận được sự đồng thuận và chấp nhận từ cộng đồng doanh nghiệp. Vì thế, công tác rà soát cần được tiếp tục thực hiện kỹ càng trước khi chính thức ban hành" - GS.TS Từ Thị Loan nêu ý kiến.
Bộ khung "Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh" được xác định là cấu trúc giá trị nền tảng, tạo cơ sở xây dựng Khung chỉ số Chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh, hướng tới chuẩn hóa hành vi trong kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, củng cố niềm tin xã hội và tăng cường khả năng hội nhập theo tiêu chuẩn quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam.













