Doanh nghiệp Việt – Nhật tìm lời giải hạ tầng tại Diễn đàn Cần Thơ
Diễn đàn kết nối doanh nghiệp Việt Nam – Nhật Bản diễn ra tại Đại học Cần Thơ vào chiều 4-12, trong đó các đại biểu đã bàn giải pháp cho những khó khăn về hạ tầng để tối đa hóa tiềm năng hợp tác của doanh nghiệp hai nước.

Một dự án có vốn đầu tư của Nhật Bản tại Cần Thơ. Ảnh: Lạc Long
ĐBSCL giữ vai trò chiến lược trong an ninh lương thực và kinh tế Việt Nam, đóng góp 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, 65% thủy sản nuôi trồng và 70% trái cây cả nước. Trong bối cảnh hợp tác Việt Nam – Nhật Bản mở rộng, khu vực này đang thu hút nhiều sự quan tâm của doanh nghiệp Nhật Bản. Hiện Nhật Bản có gần 200 dự án tại ĐBSCL với tổng vốn hơn 2,2 tỉ đô la, chiếm 10,5% FDI toàn vùng.
Tuy vậy, ngoài vài dự án năng lượng lớn, phần lớn vốn Nhật Bản vào ĐBSCL vẫn nhỏ, tập trung quanh TPHCM. Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân chính nằm ở hạ tầng chưa đồng bộ, đặc biệt là giao thông và logistics. Mạng lưới đường bộ – đường thủy kết nối yếu, nhiều đoạn không đáp ứng lưu lượng hàng hóa ngày càng lớn. Việc vận chuyển nông, thủy sản ra các cảng biển hoặc về thị trường tiêu thụ lớn như TPHCM vẫn tốn thời gian, chi phí cao, làm giảm sức cạnh tranh.
ĐBSCL cũng thiếu cảng nước sâu quy mô lớn và các trung tâm logistics hiện đại. Hàng hóa phải trung chuyển qua TPHCM hoặc Cái Mép – Thị Vải, tạo thêm chi phí và rủi ro chậm trễ. Đây là điểm trừ lớn đối với chuỗi cung ứng vốn yêu cầu cao của doanh nghiệp Nhật Bản. Một số khu công nghiệp trong vùng còn thiếu đồng bộ về hạ tầng và xử lý môi trường, chưa hấp dẫn với các dự án công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn.
Tại diễn đàn doanh nghiệp Việt – Nhật, các nhà đầu tư đề xuất ba hướng ưu tiên. Thứ nhất, đẩy nhanh hoàn thành các tuyến cao tốc trục dọc và trục ngang như Trung Lương – Mỹ Thuận – Cần Thơ – Cà Mau hay Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng, cùng các cầu lớn và vành đai đô thị, nhằm tạo kết nối liên thông trong vùng và với TPHCM. Đồng thời, tận dụng mạng kênh rạch để phát triển logistics đường thủy, nạo vét luồng, nâng cấp cảng nội địa và xây dựng mô hình vận tải đa phương thức.
Thứ hai, phát triển hệ thống cảng biển nước sâu tại các vị trí chiến lược như Trần Đề hoặc Hòn Khoai, giúp hàng hóa xuất khẩu trực tiếp mà không phải trung chuyển. Song song đó, hình thành các trung tâm logistics vùng gắn với khu công nghiệp và cảng biển, áp dụng công nghệ số theo chuẩn quốc tế.
Thứ ba, các tỉnh cần có chính sách ưu tiên rõ ràng cho doanh nghiệp Nhật, đặc biệt trong các ngành công nghệ cao, chế biến nông nghiệp và năng lượng sạch, cùng cơ chế tháo gỡ vướng mắc nhanh hơn cho dự án đang hoạt động.
Nếu giải được nút thắt hạ tầng, ĐBSCL có thể đón làn sóng đầu tư mới từ Nhật Bản, đồng thời nâng cấp mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững và gắn chặt hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.













