Độc đáo lễ hội làng Hạ Bì Hạ - Tri ân công đức Vua Hùng
Nằm dọc theo tả ngạn sông Đà, đối ngạn là dãy Ba Vì quanh năm mây trắng bao phủ mênh mang huyền thoại Tản Viên Sơn thánh, Thanh Thủy hiện còn rất nhiều di tích lịch sử văn hóa và các lễ hội dân gian độc đáo gắn với truyền thuyết thời đại Hùng Vương dựng nước và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương - di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tài sản vô giá này đang được Đảng bộ, chính quyền và đồng bào các dân tộc trên địa bàn gìn giữ, phục dựng, nâng lên tầm cao mới gắn với phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Cách Trung tâm huyện 7 km về hướng Tây - Nam là xã Xuân Lộc, một vùng đất hẹp nằm tả ngạn bên con sông Đà. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, đây là xã giàu truyền thống văn hóa, dấu ấn lịch sử còn được lưu giữ ở các quần thể di tích thờ Vua Hùng và các tướng lĩnh thời Hùng Vương dựng nước với: Đình Võng La, đình Bì Châu, đình Xuân Dương, đình Hạ Bì Thượng, Hạ Bì Trung và Hạ Bì Hạ...
Liền kề phía ngoài đê sông Đà là cụm di tích đình - đền Hạ Bì Hạ, nơi hiện đang phụng thờ vua Hùng Nghị Vương thứ 17 cùng Đức Thánh Tản Viên và thành hoàng làng Lý Dực Công. Cụm di tích Đình Hạ Bì Hạ đã được UBND tỉnh Phú Thọ công nhận là di tích cấp tỉnh năm 2001. Nhìn qua sông Đà về phía nam, là ngọn núi Ba Vì uy linh soi bóng; thấp thoáng phía bắc theo đường chim bay chừng ngót hai chục cây số là trung tâm Nghĩa Lĩnh - cố đô Văn Lang xưa, nơi Vua Hùng lập ra Nhà nước đầu tiên của cư dân người Việt.
Các bậc cao niên của làng còn nhớ: Trước năm 1945, cụm di tích đình - đền ở Hạ Bì Hạ rất bề thế, chiếm khoảng đất rộng do vua ban, lễ hội hàng năm tổ chức cực kỳ hoành tráng, có tiếng khắp vùng. Do Pháp đốt phá, lũ lụt và thời gian hủy hoại, cụm di tích nơi đây bị san phẳng, lễ hội gần như không tồn tại, chỉ còn đôi ba bát nhang do dân chúng tập trung hương khói tưởng nhớ đức vua Hùng và tiền nhân.
Đình làng Hạ Bì Hạ được khôi phục lại năm 2001 trên nền móng cũ của ngôi đền thờ Lý Dực Công nằm ngay sát đê sông Đà (tỉnh lộ 316). Ngôi đình được làm quay hướng Tây - Bắc, có kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm đại bái 3 gian 2 dĩ và một hậu cung. Kiến trúc đình Hạ Bì hiện nay tuy không đồ sộ, bề thế như ngôi đình cổ trước kia, nhưng vẫn mang kiểu dáng kiến trúc thuở xưa, nhà 4 mái lợp ngói âm có 4 đầu đao cong lên làm tăng thêm vẻ đẹp uy nghiêm cho ngôi đình. Cùng với kiến trúc là nghệ thuật trang trí làm đẹp cho ngôi đình đã được người thợ ngày nay quan tâm chú ý từ những đầu bẩy, bức cốn nách đến các con chồng, đầu dư, cốn mê đều được đục chạm những hình rồng, vân mây hoa lá cách điệu và được sơn ta đánh bóng khiến cho ngôi đình đẹp lộng lẫy. Với các giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc, đình - đền Hạ Bì Hạ đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh, là niềm tự hào của người dân nơi đây.
Từ giữa tháng giêng đến cuối tháng 2 âm lịch, Ban quản lý di tích cùng ban khánh tiết và đại diện các khu dân cư đã họp để bàn công việc chuẩn bị lễ hội, phân công nhiệm vụ, trách nhiệm của từng ban ngành trong thôn. Việc hệ trọng có tính quyết định cho toàn bộ diễn trình lễ hội là cắt cử, chọn người tham gia các vai như ông chủ tế, ban thờ tự, lực lượng tham gia đội tế và đội quân rước kiệu… Song hành với việc phân bổ, lựa chọn các vai chính trên đây, ban khánh tiết đề xuất các yêu cầu chuẩn bị trang phục cho buổi lễ, kiểm tra các loại dụng cụ và các loại đồ thờ cúng phục vụ các công đoạn của lễ hội.
Lễ hội được tổ chức bắt đầu bằng lễ giao thư, sớm ngày mùng 5.3 âm lịch. Buổi chiều ông Từ thắp hương kính cáo vua Hùng và các Thánh. Sáng ngày mùng 7.3, dân làng tổ chức rước nước. Người lấy nước bao gồm ông Chủ tế, ông đọc chúc, ông hành văn, ra ngồi thuyền lấy nước đổ vào bình. Nước được lấy ở giữa dòng Đà Giang, rước về cung dâng lên ban thờ đức vua Hùng và các Thánh cùng Thành hoàng làng; và một phần để bao sái đồ thờ. Chiều ngày mùng 7.3 tổ chức cáo tế. Lúc này các cụ làm lễ, đọc hai bản văn cáo tế gồm có văn tế các vua Hùng và đức Thánh Tản Viên, kế tiếp là Văn tế Đức Bản Thổ Thành hoàng làng.
Ngày mùng 8 được coi là chính hội. Ngay từ sáng sớm, dân làng đã tập trung tổ chức rước đoàn kiệu từ đình ra đền Bà Chúa, từ đó, đón rước lô nhang từ đền Bà ven sông Đà về ban đồng tế ở đình làng. Mặc dù quãng đường rước kiệu không dài, nhưng đội rước với các lớp lang hùng hậu đã tạo ra không gian lễ hội hoành tráng và náo nhiệt. Khi rước xong, đoàn rước kiệu được nghỉ giải lao, đại diện các dòng họ và các gia đình trong làng bắt đầu lần lượt mang lễ ra để dâng tế Vua Hùng, Thánh Tản Viên và Thành hoàng họ Lý, tỏ lòng biết ơn và cầu mong trong năm mưa thuận gió hòa, gia đình bình yên vô sự. Lễ vật gồm có bánh giầy, chè kho, đó là hai lễ vật được coi là đặc sản hạ Bì, không thể thiếu trong mọi ngày lễ.
Vào đúng giờ hoàng đạo, đội nghi lễ khởi sự. Trong giây phút thiêng giữa không gian thiêng, ông Chủ tế đọc chiếu sắc và chúc văn tế Đức Vua Hùng thứ 17 cùng Thánh Tản Viên và văn tế đức Bản Thổ Thành hoàng làng. Đây là những giây phút linh thiêng nhất, và cũng phải vào thời điểm này, chiếu sắc mới được mở ra, còn bình thường luôn được giữ kín suốt năm. Buổi tế lễ bắt đầu bằng 3 hồi chiêng và 3 hồi trống liên tục, rồi tiếp sau đó mỗi người lại đánh thêm 3 tiếng nữa, ban nhạc lễ hội nổi nhạc, không khí lúc này thật thành kính và trang nghiêm. Kết thúc buổi lễ, Ban quản lý di tích cùng dân chúng trong thôn và khách mời tổ chức liên hoan thụ lộc ngay tại sân đình. Chiều ngày mùng 8, ông chủ từ thay mặt mọi người làm lễ tế thánh, báo công đã hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp kết thúc 1 mùa lễ hội vui tươi náo nhiệt để bước vào một năm mới đầy ước vọng.
Song hành với diễn trình 2 ngày dâng lễ và tế Thánh trong khuôn viên của đình, Ban quản lý di tích triển khai tổ chức các trò chơi dân gian và giao lưu văn nghệ, được sắp xếp một cách hợp lý, tăng thêm phần vui nhộn của lễ hội. Ngay từ ngày mùng 6 cho đến hết ngày mùng 7, nhiều hoạt động sôi nổi, phong phú, đã diễn ra, thu hút đông đảo dân chúng trong thôn tham gia. Tối mùng 6, Ban tổ chức lễ hội tổ chức giao lưu văn nghệ như hát ca trù, chầu văn, quan họ, đặc biệt là chương trình văn nghệ của Câu lạc bộ hát Xoan làng Hạ Bì Hạ, thu hút đông đảo người dân quanh vùng đến thưởng thức. Dọc theo triền đê sông Đà và quanh không gian văn hóa cờ hội rợp trời của làng, nhiều trò chơi dân gian đặc sắc đã diễn ra, như: Nấu cơm thi, tổ tôm điếm, cờ tướng, cờ người, bịt mắt bắt vịt… để tăng thêm phần sôi động của lễ hội.
Đến với lễ hội đình làng Hạ Bì Hạ, trò nấu cơm thi không chỉ là một hình thức vui chơi giải trí trong dịp lễ hội mà nó còn lưu giữ những nét đẹp của truyền thống cha ông xưa, đó là sự nhanh nhẹn khéo léo, mang biểu tượng của hình thức vừa đi vừa nấu cơm nhanh cho binh sĩ kịp ăn trước giờ ra trận thời các vua Hùng. Đồng thời, nấu cơm thi còn là một trò diễn nhằm thể hiện lòng quý trọng lúa gạo, trau dồi thao tác chế biến một sản phẩm nông nghiệp quan trọng bậc nhất do chính tay người nông dân làm ra. Bên cạnh trò nấu cơm thi, người Hạ Bì còn tổ chức trò chơi bịt mắt bắt vịt, tạo nên không khí hội náo nhiệt, giúp người dân quên đi những mệt mỏi của cuộc sống thường nhật.
Hòa với không khí sôi động của ngày hội, các bậc cao niên Hạ Bì Hạ còn phục dựng truyền thống đánh cờ người và tổ tôm điếm, những hình thức vui chơi vừa trí tuệ, vừa tao nhã vốn đã có từ nhiều năm qua trên mảnh đất này.
Trong nhiều năm qua, bằng những hình thức xã hội hóa, tổ chức phục dựng, tôn tạo hàng loạt đình, đền, miếu, tạo nên một không gian văn hóa lễ hội đặc sắc, gắn với việc thờ phụng Hùng Vương đời thứ 17 cùng các tướng lĩnh và con gái của vua, người dân làng Hạ Bì Hạ đã chung sức chung lòng gìn giữ một lễ hội hoành tráng và náo nhiệt cho vùng hạ lưu sông Đà, góp phần bồi đắp thêm cho hệ thống Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ đặc sắc và độc đáo, thể hiện đạo lý: "Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ người trồng cây". Cũng nhờ đó, người dân làng Hạ Bì Hạ nói riêng, cộng đồng các dân tộc tỉnh Phú Thọ nói chung đã có công sáng tạo, gìn giữ và bảo vệ được nguồn di sản văn hóa quý báu của quê hương đất Tổ, làm đa dạng và phong phú thêm truyền thống văn hóa mang cốt cách và bản sắc văn hóa Việt trong tiến trình lịch sử. Điều đó càng đặc biệt giá trị khi Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ đã được UNESCO công nhân là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại./.