Độc đáo Tết 'bàn thờ lớn' của người Dao ở Cây Thị
Cứ mỗi độ Xuân về, khi hoa đào, hoa mơ nở rộ trên sườn đồi thì cũng là lúc người Dao Lô Gang ở xã Cây Thị (Đồng Hỷ) tạm gác lại công việc hàng ngày để vui Tết, đón Xuân. Người ở xa thì thu xếp công việc để trở về, những người ở nhà thì bận rộn chuẩn bị sẵn sàng mọi việc để đón một trong những ngày lễ quan trọng nhất của người Dao Lô Gang – Tết 'bàn thờ lớn'.
Cứ mỗi độ Xuân về, khi hoa đào, hoa mơ nở rộ trên sườn đồi thì cũng là lúc người Dao Lô Gang ở xã Cây Thị (Đồng Hỷ) tạm gác lại công việc hàng ngày để vui Tết, đón Xuân. Người ở xa thì thu xếp công việc để trở về, những người ở nhà thì bận rộn chuẩn bị sẵn sàng mọi việc để đón một trong những ngày lễ quan trọng nhất của người Dao Lô Gang – Tết “bàn thờ lớn”. Khác với Tết cổ truyền của các dân tộc khác, với đồng bào Dao ở Cây Thị, Tết bắt đầu từ nhà đặt bàn thờ lớn của dòng họ. Sau khi ăn Tết “bàn thờ lớn” xong, các gia đình khác trong họ mới được cúng Tết tại nhà mình.
Tết “bàn thờ lớn” của dòng họ Dương, nơi chị Đỗ Thị Minh Huế làm dâu được tổ chức vào ngày 27 tháng Chạp. Nhưng là gia đình đặt bàn thờ lớn của dòng họ, từ 2 tháng trước đó, nhà chị đã chọn ngày và mời thầy đến cúng Tết. Từ đầu tháng Chạp, người già, trẻ nhỏ trong nhà sẽ cũng nhau cắt giấy màu để trang trí bàn thờ lớn thật đẹp, thể hiện lòng hiếu kính với tổ tiên. Màu giấy được sử dụng trong việc trang trí bàn thờ chủ yếu là đỏ và vàng, với ý nghĩa mang lại hạnh phúc, may mắn, đầy đủ và tạo ra năng lượng tích cực cho con người.
Để chuẩn bị cho Tết “bàn thờ lớn” của dòng họ, từ chiều hôm trước, nhà chị Huế đã thịt lợn, gói bánh chưng dài để hôm sau vớt bánh cho kịp giờ làm lễ cúng. Vài ngày trước, chị cũng đã đến từng nhà trong họ để thông báo về việc tổ chức Tết “bàn thờ lớn”.
Theo phong tục, người Dao ở Cây Thị ăn Tết “bàn thờ lớn” trong thời gian từ ngày 15 đến ngày 30 tháng Chạp. Tùy điều kiện của mỗi gia đình, người Dao sẽ chọn ngày tổ chức phù hợp rồi thông báo cho các gia đình trong dòng họ đến ăn Tết. Gọi là Tết “bàn thờ lớn” vì lễ được tổ chức tại gia đình đặt bàn thờ lớn của dòng họ. Gia đình này cũng không cố định, mà được chuyển qua các nhà trong dòng họ theo vai vế cha – con, anh – em... Điều kiện để một gia đình được rước bàn thờ lớn về nhà là gia chủ đã làm lễ Cấp sắc.
Ở Cây Thị, có nhiều dòng họ lớn như Bàn, Triệu, Dương… có thể lên đến hàng chục gia đình, nên Tết “bàn thờ lớn” được tổ chức rộn ràng, với sự có mặt của đông đủ con, cháu.
Người Dao không “mời” những gia đình trong dòng họ đến ăn Tết, mà chỉ thông báo. Bởi từ ngàn đời nay, Tết “bàn thờ lớn” là thông lệ bắt buộc. Các gia đình sau khi ăn Tết “bàn thờ lớn” mới được tổ chức Tết tại nhà riêng, gọi là Tết “bàn thờ nhỏ”. Khi đến ăn Tết “bàn thờ lớn”, mỗi gia đình trong dòng họ đều góp 1 con gà ngon và 1 chai rượu để dâng cúng tổ tiên. Sau đó, mọi thành viên trong dòng họ, dù là già – trẻ, nam – nữ đều xắn tay vào cùng nấu mâm cỗ Tết.
Nếu như ngoài sân, trong bếp rộn ràng tiếng nói cưới, giòn giã tiếng dao thớt chuẩn bị mâm cỗ Tết thì tại nhà trên, không khí tĩnh lặng hơn hẳn. Lúc này, ông Dương Phú Hây, Trưởng dòng họ, đang tỉ mẩn làm tiền âm bằng giấy bản. Tiền âm của người Dao không mua sẵn, mà phải tự tay đàn ông trong nhà làm ra. Tiền được làm bằng giấy bản trắng, cắt nhỏ, rồi đóng dấu mộc, tượng trưng cho việc in tiền.
Lễ vật để cúng trong Tết “bàn thờ lớn” không hề cầu kỳ. Chỉ bao gồm gà, rượu do các gia đình trong họ mang đến, bánh chưng, gạo. Ngoài ra bắt buộc phải có tiền âm được làm bằng giấy bản. Trong lễ cúng tổ tiên, người Dao không dùng hương mà dùng vỏ cây hương lấy từ trong rừng về phơi khô, khi làm lễ thì châm lửa từ bếp, sau đó đặt vào một cái bát trên bàn thờ.
Sau khi tất cả những lễ vật được bày trước bàn thờ lớn, thầy cúng sẽ đại diện cho gia chủ báo cáo quá trình một năm lao động; cảm ơn tổ tiên đã bảo vệ, phù hộ cho mọi người được khỏe mạnh, may mắn và bình an. Bài cúng cũng rất đơn giản, gồm mời tổ tiên về ăn Tết, báo cáo những việc đã làm được trong năm qua, mời ăn, mời rượu, mời trà… Trong lúc làm lễ, trưởng họ đứng cạnh thầy cúng để giúp đỡ một số công việc. Nửa chừng làm lễ, gia chủ ra vườn hái một số cành cây và mang ra một cây búa để thầy cúng làm lễ nhằm xua đuổi tà ma, cầu mong may mắn.
Sau khi cúng bàn thờ lớn ở nhà chính, thầy cúng còn làm lễ ở bếp với đĩa thịt gà, thịt lợn, bát gạo. Sau cùng, gia chủ đặt một phần tiền bán lợn trong năm vào một chiếc nia để thầy cúng làm lễ, cầu cho năm mới mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà phát triển.
Tết đến cũng là dịp để chị em phụ nữ người dân tộc Dao ở Cây Thị được khoe những bộ quần áo truyền thống rực rỡ sắc màu. Từ nhỏ, người Dao ở Cây Thị đã được dạy để hiểu, thêm yêu và thêm tự hào với bản sắc của dân tộc mình. Chẳng thế mà dù trong cuộc sống hiện đại, với đủ mẫu thời trang khác nhau, mỗi chị em người Dao ở Cây Thị vẫn đều có riêng cho mình một vài bộ trang phục truyền thống. Có người tự may, tự thêu thùa, những ai bận rộn có thể mua sẵn. Nhưng ngày Tết đến, Xuân về, ai cũng tự hào khoác lên mình bộ trang phục truyền thống.
Việc ăn Tết “bàn thờ lớn” của người Dao không chỉ là dịp để các thành viên trong gia đình nghỉ ngơi, sum họp sau một năm lao động vất vả, mà còn là dịp để người cao tuổi và con cháu cùng nhau ôn lại truyền thống, bản sắc văn hóa, hát những làn điệu của dân tộc đã có từ lâu đời, mang đậm chất trữ tình đằm thắm, trong sáng và giản dị của tâm hồn người Dao. Đây cũng là cách người Dao ở Cây Thị gìn giữ mạch nguồn văn hóa từ bao đời nay.
Trong tiết trời se lạnh của mùa Xuân, khi cơn mưa phùn lất phất, đọng những hạt sương trên cánh hoa đào phai trong vườn nhà chị Huế, buổi cúng lễ kết thúc. Lúc này, anh em trong dòng họ đã có mặt đông đủ, nhanh tay dọn mâm để chuẩn bị ăn Tết. Ai cũng mau mắn xắn tay cùng làm. Người chặt gà, người cắt nem, lũ trẻ thì bày bát đũa, kê bàn ghế… Lát sau, tiếng nói cười rộn ràng, những câu chúc tụng ý nghĩa được gửi đến nhau. Không khí sum vầy thoáng chốc tràn ngập khoảng sân nhỏ…
Sau một năm lao động cần mẫn, người Dao ở Cây Thị lại tổ chức đón Tết theo cách rất riêng. Giữa bộn bề của cuộc sống, người Dao luôn tự hào khi những bản sắc văn hóa của dân tộc mình không bị mai một mà được trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác một cách bền vững.