Đọi dầu khêu bấc

Đêm qua đốt đọi dầu đâỳBấc non chẳng cháy, oan mày dầu ơiBấc là gì? Cơn cớ làm sao khi người ta lại dùng từ bấc? Há chẳng phải bắt đầu từ câu ca dao: 'Đêm qua gió bấc mưa dầm/ Đèn lầm với bóng, bóng lầm với ai?' đấy sao? Ngẫm ra có lý, gió bấc còn gọi 'gió mùa đông bắc' lúc ấy gió lạnh ùa về lại mưa dầm dề nên người ta thường thắp đèn cho ấm áp. Mà, đèn thắp trong khung cảnh gió phùn mưa nhão, gió bấc mưa dầm nên ánh sáng nhập nhòe khiến dẫn đến sự nhầm lẫn giữa đèn với bóng.Suy luận này có đúng?

Không. Bấc/ gió bấc là từ đồng âm dị nghĩa với: "Bấc: (1) Tên gọi chung những cái ruột xốp ở trong lòng mấy thứ cây hay mấy thứ cỏ: Bấc cây vông, bấc tre, bấc mía, bấc sậy; (2) Tên gọi riêng một thứ ruột cỏ ở dưới nước, dùng để thắp đèn dầu hột (tức là đăng tâm). Cỏ ấy có thể trồng ở ruộng như cây cói, cây lúa. Vì cỏ ấy dùng làm vật liệu thắp đèn cho nên thành tên cỏ bấc" - theo “Việt Nam tự điển” (1931). Xin giải thích "đăng tâm" là từ Hán-Việt nhằm chỉ "tim đèn".

"Ngọn đèn khi tỏ khi mờ/ Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu" (Truyện Kiều). Tranh minh họa của họa sĩ Trần Văn Cẩn.

"Ngọn đèn khi tỏ khi mờ/ Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu" (Truyện Kiều). Tranh minh họa của họa sĩ Trần Văn Cẩn.

Về "lai lịch" của nó, “Từ điển Bách khoa nông nghiệp” (Trung tâm quốc gia biên soạn từ điển bách khoa -19) cho biết: "Cỏ bấc còn có tên khác: cỏ nùng nùng, cỏ môi, cỏ lưu niên, cây thuộc loài Hòa thảo (Gramineae), thích ẩm và chịu ngập tốt, có thân rễ bò dài. Thân mọc thành bụi dài, vươn dài 0,6 - 1,2m hoặc cao hơn tùy theo mức nước, bên trong các bấc xốp trắng" (tr.126). Khi sử dụng làm bấc đèn, cần lưu ý tránh trường hợp:

Đêm hôm qua rót đĩa dầu hao

Bấc non không cháy, oan tao rót dầu

Có thể không dùng bấc, người ta còn xe chỉ nhưng chớ nên:

Ai cho trúc nọ lộn tre

Ai đem chỉ gấm mà xe tim đèn

Này, bạn có ngờ ngợ gì về việc in sai morat trong giải thích của từ điển in năm 1931 không? Đó là câu: "dùng để thắp đèn dầu hột", phải "dầu hôi/ dầu hỏa/ dầu lửa" chứ nhỉ - ngày trước còn gọi "dầu tây", ta hiểu nôm là loại dầu lấy từ mỏ dầu, hiện nay thiên hạ vẫn còn sử dụng.

Cái sự "dọn vườn" này, có đúng?

Không. Ngày xửa ngày xưa, người Việt chưa có "dầu tây", vì thế muốn thắp sáng phải dùng dầu hột. Hột ở đây là do ép lấy chất lỏng và nhờn từ hột/ hạt mà ta gọi là dầu như dầu lạc/ dầu phộng, dầu vừng… gọi chung là "dầu ta". Khi cụ Đồ Chiểu: "Trước đèn xem truyện Tây minh/ Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le/ Hỡi ai lẳng lặng mà nghe/ Dữ răn việc trước, lành dè thân sau" là lúc ấy cụ dùng loại "dầu hột". Sự "ăn ý" giữa bấc và dầu không chê vào đâu được, vì thế mới có câu cửa miệng: "Bấc đã đượm với dầu, trầu đã đượm với cau" - còn được hiểu theo nghĩa bóng là mọi thủ tục nghi lễ cho tình duyên đôi lứa đã sắp xếp xong, chỉ còn chờ ngày lành tháng tốt.

Cỏ bấc chắc chắn rất nhẹ, do đó được sử dụng để so sánh: "Nhẹ như bấc, nặng như chì", vì thế khi nghe câu ca dao: "Đêm qua rủ rỉ rú rì/ Tiếng nặng bằng bấc, tiếng chì bằng bông" - cho thấy cuộc trò chuyện rất khẽ, âm thanh chỉ thoáng qua nên không ai có thể nghe rõ được lời nào, câu nào. Trên đời này có những người làm ăn lớn, đầu tư tài chánh "Buôn ngược bán xuôi", ghê gớm như chính lời họ tuyên bố: "Phen này anh quyết buôn to/ Buôn ba đồng bấc bỏ đò anh xuôi". Một khi đã hiểu tính chất của bấc, tất nhiên ta tủm tỉm cười cho sự trào lộng này.

Đêm qua đốt đọi dầu đầy

Bấc non chẳng cháy, oan mày dầu ơi

Ở câu này, ta còn phân vân với từ đọi/ đọi dầu. Đọi là cái chén, cái bát khiến ta phân vân chẳng lẽ lại rót dầu vào trong đọi vốn dùng để ăn cơm như hò Huế có câu:

Người ta giàu sang thì ăn đũa trắc bịt bạc

Khổ như đôi mình thì đọi đất mâm đan

Cũng cố thương cho trọn kẻo thế gian chê cười

Hoặc dùng để đựng nước uống:

Hai tay bưng đọi chè tàu

Vừa đôi thì lấy ham giàu làm chi

Rõ ràng cái đọi có công dụng cụ thể của nó, chứ khộng thể dùng đề rót dầu vào đó để làm đèn. Hơn nữa, ngày trước tạo ra dầu theo lối thủ công thì dầu đâu mà nhiều thế? Vô lý. Vậy, đọi/ đọi đèn là cái gì?

Trong “Truyện Kiều”, những lúc tự sự, ngẫm nghĩ riêng tư, nhân vật thường ngồi trước ngọn đèn dầu, chẳng hạn, Kim Trọng trở về nhà sau lần đầu gặp Thúy Kiều: "Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao/ Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng"; nàng Kiều sau lúc bán mình chuộc cha: "Nỗi riêng riêng những bàng hoàng/ Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn"; lúc sa cơ thất thế trong nhà Hoạn Thư: "Một mình âm ỷ đêm chầy/ Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh". Qua mấy khổ thơ này ta đã thấy có từ đĩa/ đĩa dầu chính là "đọi đèn" - tức là cái đĩa đựng dầu, người ta đặt sợi bấc vào trong đó, kéo hơi dài đầu bấc ra ngoài vành đĩa và đốt đèn.

Lúc bấc lụn dần khiến ánh sáng yếu ớt, người ta phải dùng động tác gì?

Sực nghĩ, trong khoảng thời gian viết truyện thơ “Lục Vân Tiên”, thỉnh thoảng dù đang dạt dào mạch cảm xúc nhưng cụ cũng phải dừng bút. Có phải lúc ấy, cụ thư giãn chốc lát, thong thả uống đọi chè tàu giải khát tìm cảm hứng chăng? Có thể là thế, cũng có thể là không. Nhưng chắc chắn có lúc cụ phải ngừng viết bởi: "Chuông có đấm mới kêu, đèn có khêu mới tỏ". Khêu là dùng cây kim hay que mà khều ngọn bấc dài thêm nữa. Tuy nhiên, biết đâu lúc ấy, cụ chưa kịp làm đã nghe có tiếng nói ấm áp, trìu mến thỏ thẻ ân tình của bà Lê Thị Điền - người vợ son sắt thủy chung, đẹp người đẹp nết:

Xin chàng dọc sách ngâm thơ

Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu

Xét về gia phong, gia đạo của cụ, chuyện này hoàn toàn có thể.

Một khi có đọi đèn mới thắp được lửa để có ánh sáng tỏa ra, ta có từ "đèn và lửa", nói theo từ Hán-Việt là "đăng hỏa". Khi đọc thơ văn cổ ta gặp từ "đăng hỏa" lại không chỉ hiểu đèn và lửa mà hiểu theo nghĩa bóng nhằm chỉ công sức học tâp: "Công đăng hỏa mười năm chưa trả/ Nỗi giang san hai gánh ai mang" (Phú cổ). Có điều rất thú vị hiểu theo nghĩa này, chúng ta có từ cùng nghĩa với "đăng hỏa" chính là "đèn sách", như “Lục Vân Tiên” có câu:

Bấy lâu đèn sách có công

Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?

Trong lời ăn tiếng nói không chỉ có "đọi' mà còn xuất hiện từ "cả đọi". Chẳng bạn, trong tập sách "Tháng ngày tôi sống với những người cộng sản" (NXB Trẻ - 2015), có đoạn nhà văn Thanh Nghị viết về một nhạc sĩ ở nội thành Sài Gòn trước năm 1975: "Anh ấy có dáng vẻ mệt mỏi khi anh ngồi xuống, anh dựa ngửa lưng ra chiếc ghế bành, anh thở hắt ra. Nhiều lần như thế, anh không nhắc lại những câu anh thường nói như: "Chán thực!", "Bà cả đọi tuốt!" (tr.315). Cái hay của cụm từ "bà cả đọi" vốn danh từ riêng - tên người đàn bà giỏi giang mở quán cơm nổi tiếng nấu theo hương vị Bắc rất ngon, nhiều người Sài Gòn thời ấy ưa thích lại được sử dụng thành từ chỉ trạng thái. Thế nhưng "đọi" ở đây không phải hiểu theo nghĩa cái chén, cái bát mà chính là tiếng lóng của từ "đói". Câu "Bà cả đọi tuốt!" là hàm nghĩa là đói mọi mặt, đói tuốt luốt, đói tất tần tật…

Với từ đọi, hiện nay có thể nhiều người miền Nam ít nghe nói đến, vì thế, ta hoàn toàn có thể suy luận là từ của địa phương vùng miền? Xem lại “Từ điển phương ngữ Nam Bộ” (1994) do Nguyễn Văn Ái chủ biên, “Phương ngữ Nam Bộ” (2015) của Bùi Thanh Kiên không thấy ghi nhận từ đọi.

Thật ra đọi là từ của ngôn ngữ toàn dân, bằng chứng là đã có mặt trong “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895): "Đọi/ bát đọi: chén bát; nhà sắp đọi: nhà cất cái trước cái sau liền nhau". Do ở trong Nam, từ đọi dần dần phai nghĩa, người ta không sử dụng nữa, vì lẽ đó từ điển phương ngữ Nam Bộ hiện nay không nhắc đến là phải rồi. Mà, cũng do từ đọi phai nghĩa nên có câu tục ngữ người ta cũng "cập nhật" bằng từ khác dễ hiểu hơn, thí dụ, tự vị này đưa ra văn liệu: "Một miếng khi đói bằng một đọi khi no: Ấy là khó giúp nhau mới thảo, giàu tư trợ ai màng". Câu tục ngữ này, hiện nay, từ "đọi" đã bị từ "gói" thay thế vị trí.

Lê Minh Quốc

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/doi-dau-kheu-bac-i784815/