Đổi mới giáo dục bằng các giải pháp định lượng
Nghị quyết của Bộ Chính trị số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025, (Nghị quyết 71) là đột phá, 'siết chặt' bằng các ràng buộc định lượng cùng các nhiệm vụ và giải pháp khả thi, nhằm giải quyết dứt điểm những khó khăn, hạn chế, bứt phá vượt trội, phát triển giáo dục và đào tạo.
Đột phá có chỉ tiêu
Đáng chú ý là khác biệt cốt lõi từ đổi mới chính sách giáo dục. Từ “đổi mới toàn diện” sang “đột phá có chỉ tiêu”. Từ nhất quán và xuyên suốt quan điểm: “coi giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu” được bổ sung, nâng lên “quyết định tương lai của dân tộc”. Nghị quyết 29 đặt nền tư tưởng, nguyên tắc và định hướng cải cách giáo dục; Nghị quyết 71 nâng cấp bằng mục tiêu định lượng và “điểm đến” rõ ràng; kỷ luật ngân sách, xác định trần - sàn kinh phí chi cho các cấp học, bậc học; chỉnh sửa chương trình và sách giáo khoa (SGK); tự chủ đi kèm trách nhiệm giải trình; mục tiêu ít nhất 8 trường đại học thuộc top 200 châu Á và 1 trường đại học vào top 100 thế giới. Cách tiếp cận này chuyển trọng tâm từ “nói đúng” sang “làm đúng và đủ”, từ tầm khu vực sang tầm quốc tế.

Học sinh Hà Nội hân hoan bước vào năm học mới 2025 - 2026. Ảnh: Xuân Ngọc
Cùng đó là đầu tư ngân sách, yếu tố quan trọng để phát triển. Phân bổ đủ 20% ngân sách nhà nước (NSNN), quan trọng hơn là cấu trúc chi như thế nào? Nghị quyết 71 yêu cầu tối thiểu 20% tổng chi NSNN cho giáo dục, trong đó ít nhất 5% cho đầu tư và tối thiểu 3% cho giáo dục đại học. Thực tế trong 10 năm qua, tỷ lệ thực chi chưa đạt 20%, trong khi chi thường xuyên áp đảo, khoảng 83,4%, chi đầu tư mới khoảng 17,6%, không đủ để “nâng cấp” phòng học, thiết bị và số hóa. Vì vậy, đột phá sẽ chỉ thành hiện thực khi 3 điểm sau được “khóa chặt”: Phần đấu cho đầu tư đủ 5% chống “xê dịch” - cơ chế phân bổ theo kết quả đầu ra - công khai dữ liệu ngân sách từng địa phương, từng cấp học.
Dùng chung sách giáo khoa là thực tế khách quan
Nghị quyết 71 “từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học” và dạy ngôn ngữ của các quốc gia láng giềng. Đột phá mang tính hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế là một điểm nhấn vô cùng quan trọng.
Việc có một bộ SGK dùng chung trong cả nước là phù hợp với thực tiễn, cũng như cách làm của các nước có nền giáo dục phát triển. Thực tế, qua 5 năm cho thấy, có nhiều bộ SGK nhưng các trường chỉ dùng 1 - 2 bộ và còn mong muốn chỉ có 1 như giai đoạn trước năm 2018. Lý do, năng lực giáo viên còn hạn chế, chưa tâm huyết chuyên môn nên vẫn dùng 1 bộ để soạn giảng. Trong khi đó, cán bộ quản lý giáo dục cũng không muốn có nhiều bộ SGK, gây khó khăn cho hoạt động quản lý chuyên môn của nhà trường.
Mặt khác, do công tác xã hội hóa làm SGK chưa đúng, khiến giá sách quá cao, cơ quan chức năng khó quản lý và ảnh hướng tới an sinh và ổn định xã hội. Ngoài ra, chương trình giáo dục phổ thông 2018, được đánh giá còn những bất cập, cần tiếp tục rà soát và chỉnh sửa…
Vì thế, có một bộ SGK dùng chung là đòi hỏi cấp thiết. Nhiều nước phát triển, họ không có SGK mà là tài liệu học tập. Với năng lực chuyên môn cao của giáo viên, cùng với tính chủ động cao của các trường, giáo viên hoàn toàn chủ động thiết kế bài giảng cho riêng mình và cho riêng lớp học sinh mình dạy.
Một bộ SGK thống nhất dùng chung, cần chỉ đạo để không “độc quyền” lặp lại; thẩm định mở và cạnh tranh nội dung (đấu thầu nhóm tác giả, phản biện độc lập, rà soát định kỳ); ngân hàng học liệu số miễn phí đi kèm (bài giảng, câu hỏi, thí nghiệm ảo), giấy chỉ là bản in của hạt nhân số; giám sát giá, chất lượng in bằng dữ liệu mở, cho phép in phân tán đạt chuẩn để tránh độc quyền.
Tiến tới phổ cập bậc THPT
Tiến tới năm 2030, cấp SGK miễn phí cho học sinh - niềm vui quá lớn với toàn dân. Trước đó là học sinh phổ thông và mầm non không phải đóng học phí, được học cả ngày ở trường, ngân sách chi trả từ nhà nước; tiến tới học sinh học bán trú được hỗ trợ tiền ăn trưa tại trường; giáo viên được xếp lương ở hạng bậc cao nhất trong khối hành chính sự nghiệp. Như vậy, Nghị quyết 71 đã khẳng định miễn phí cho phổ cập bậc Tiểu học và THCS, tiến tới phổ cập THPT trong cả nước. Vị thế nhà giáo được nâng lên, hiện tượng bỏ nghề là cá biệt và điểm đến ước mơ của học sinh phổ thông, rộng mở vào học các ngành sư phạm.
Có thể nói, Nghị quyết 71 không chỉ là tuyên bố chính trị cao nhất mà còn là bản thiết kế hành động, cụ thể, quyết liệt, có mục tiêu rõ ràng để đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, cần tránh “phong trào hóa” bằng cách mục tiêu đầu ra theo cấp học phải rõ ràng; chuẩn giáo viên phải là bắt buộc - đánh giá năng lực độc lập của các tổ chức quốc tế. Ở bậc đại học, cần tránh “xếp hạng vì xếp hạng”.
Đổi mới tư duy và thể chế là khâu then chốt của mọi cải cách. Nghị quyết 71 trao quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học và dạy nghề không phụ thuộc mức độ tự chủ tài chính. Ngoài ra là việc coi trọng chính sách hướng tới nhân lực. Thiết kế chi trả, ưu tiên vùng khó và môn thiếu giáo viên - gắn phụ cấp với chuẩn nghề nghiệp và kết quả học tập người học để tránh “cào bằng” - tích hợp với lương mới trong cải cách tiền lương để bảo đảm thực thu. Cần lộ trình 2 - 3 năm với cơ chế tự động điều chỉnh theo vùng, khi giá sinh hoạt thay đổi.