Đổi mới và hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia hoạt động xét xử tại tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới
Nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước nói chung, hoạt động tư pháp nói riêng là đặc tính của các nhà nước dân chủ, tiến bộ. Ở nước ta, bản chất dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tòa án không chỉ thể hiện ở việc các công chức tư pháp tận tụy, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mà còn thể hiện ở việc huy động quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử, góp phần thực thi và bảo vệ công lý.
Nếu nguyên tắc “tòa án nhân dân xét xử công khai” là cơ chế bảo đảm sự kiểm soát có tính chất tổng thể, từ bên ngoài của toàn xã hội đối với hoạt động xét xử của tòa án, thì nguyên tắc “xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia” chính là cơ chế bảo đảm cho nhân dân kiểm tra trực tiếp, cụ thể và từ bên trong của hoạt động này. Tư tưởng xây dựng một nền tư pháp “lấy dân làm gốc” đã được khẳng định ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946 của Nhà nước ta: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình” (Điều thứ 65). Tiếp đó, tại Sắc lệnh số 33C/SL, ngày 13-9-1945, về việc thiết lập các tòa án quân sự của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng quy định: “Ngồi xử có Chánh án và hai hội thẩm. Ghế Chánh án và ghế hội thẩm sẽ do một ủy viên Quân sự và một ủy viên Chính trị ngồi. Còn ghế hội thẩm thứ nhì sẽ thuộc về ông thẩm phán chuyên môn của tư pháp. Ủy viên Quân sự và ủy viên Chính trị sẽ do quân đội và Ủy ban nhân dân ở địa phương cử ra”.
Kể từ đó cho đến nay, trải qua các lần sửa đổi Hiến pháp, nguyên tắc “xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia” luôn được hiến định như một phương thức để nhân dân trực tiếp tham gia và giám sát hoạt động xét xử của tòa án. Qua đó thể hiện bản chất Nhà nước ta là “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân...; do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” (khoản 1, khoản 2, Điều 2, Hiến pháp năm 2013). Trải qua hơn 75 năm hình thành và phát triển, chế định hội thẩm không ngừng được đổi mới và hoàn thiện theo các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hội thẩm cơ bản đã được hoàn thiện; ngoài Hiến pháp, còn có 9 văn bản luật và dưới luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến chế định này(1). Chúng ta đã xây dựng được đội ngũ hội thẩm đông đảo, với 17.299 hội thẩm, trong đó có 16.913 hội thẩm nhân dân và 386 hội thẩm quân nhân. Hoạt động của hội thẩm ngày càng nền nếp, có kinh nghiệm và đóng góp cho việc nâng cao chất lượng xét xử của tòa án. Trong nhiệm kỳ 2016 - 2021, hội thẩm nhân dân đã tham gia xét xử sơ thẩm 998.257 vụ án; bình quân mỗi hội thẩm nhân dân tham gia xét xử 70,8 vụ án/nhiệm kỳ. Hội thẩm quân nhân đã tham gia xét xử sơ thẩm 672 vụ án; bình quân mỗi hội thẩm quân nhân tham gia xét xử 3,5 vụ án/nhiệm kỳ. Trong nhiệm kỳ, có 35 lượt hội thẩm có quan điểm không thống nhất với thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi ra phán quyết; trong số này có 4 vụ án sau đó được tòa án cấp phúc thẩm ra phán quyết theo quan điểm của hội thẩm.
Bằng kinh nghiệm, hiểu biết và kiến thức của mình, hội thẩm mang đến phiên tòa những quan niệm đạo đức chung của xã hội, sự nhận xét, đánh giá của nhân dân về hành vi phạm tội, tính chất của các tranh chấp theo lẽ phải và công bằng... Sự tham gia của hội thẩm góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, tăng thêm niềm tin cá nhân của thẩm phán vào việc đưa ra phán quyết giải quyết vụ án “thấu tình”, “đạt lý”, công bằng, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội. Bên cạnh đó, việc tham gia xét xử của hội thẩm còn làm cho các phiên tòa tranh tụng chất lượng hơn; thông qua phiên tòa người dân biết và hiểu được các quy định của pháp luật, quy tắc của cuộc sống, từ đó, có ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng quy tắc và đạo đức xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, hoạt động tư pháp thời gian qua cho thấy, các quy định của pháp luật hiện hành về cơ chế lựa chọn, vị trí, vai trò, thẩm quyền, tổ chức hoạt động của hội thẩm bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn phát triển đất nước.
Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập ngày càng sâu, rộng vào đời sống thế giới, yêu cầu về bảo vệ quyền con người, quyền công dân ngày càng được đề cao, thì việc xây dựng một nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là nhiệm vụ chính trị quan trọng được đặt ra trong Đại hội XIII của Đảng. Đây sẽ là một trong những mục tiêu quan trọng trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; các kết luận của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đòi hỏi phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án.
Những hạn chế, bất cập của chế định hội thẩm hiện hành ở Việt Nam
Thực tế hoạt động xét xử thời gian qua cho thấy những bất cập, hạn chế của chế định hội thẩm nhân dân, biểu hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hội thẩm còn tản mạn, chưa đầy đủ, chưa phù hợp; việc thực thi các quy định của pháp luật về hội thẩm cũng chưa thực sự quyết liệt, thống nhất và hiệu quả.
Các quy định của pháp luật về hội thẩm hiện nay đang nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật với hiệu lực pháp lý khác nhau, thuộc các lĩnh vực điều chỉnh khác nhau, gây khó khăn ít, nhiều cho việc xác định địa vị pháp lý cũng như thực thi quyền và nghĩa vụ của hội thẩm. Bên cạnh đó, việc quy định chế định hội thẩm tại một chương riêng trong Luật Tổ chức tòa án nhân dân (Chương VIII) có thể dẫn tới cách hiểu hội thẩm là một chức danh tư pháp thuộc cơ cấu nhân sự của tòa án, do tòa án quản lý. Theo quy định của pháp luật về tố tụng thì hội thẩm chiếm đa số trong hội đồng xét xử, ngang quyền với thẩm phán khi biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của hội đồng xét xử. Tuy nhiên, hội thẩm không phải là người được đào tạo bài bản về pháp luật, thiếu kỹ năng, nghiệp vụ xét xử và không có đủ thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ án như thẩm phán, nên một số hội thẩm bị động, lúng túng trong khi tham gia xét xử. Việc trao quyền như vậy đôi khi đã vô tình khoác lên vai hội thẩm một “gánh nặng” vượt quá khả năng của họ, khiến họ khó có thể tự mình thực hiện được nhiệm vụ. Từ đó dẫn đến tình trạng một số hội thẩm có tư tưởng lệ thuộc vào ý kiến, quyết định của thẩm phán, nhất là trong việc đánh giá, nhận định và đưa ra phán quyết.
Thẩm phán là người được trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật, nhưng không phải là chuyên gia trong mọi lĩnh vực, trong khi các tranh chấp ngày càng diễn biến phức tạp, đặc biệt là tranh chấp trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân hàng, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, tài nguyên - môi trường, xây dựng cơ bản..., đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía các hội thẩm có kiến thức chuyên môn sâu. Tuy nhiên, việc lựa chọn hội thẩm hiện nay chưa chú trọng đến những người có chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu nên chưa bổ khuyết được kiến thức cho thẩm phán trong việc đánh giá tình tiết, sự việc và đưa ra phán quyết chính xác, thuyết phục. Chưa có chế tài cụ thể đối với trường hợp hội thẩm từ chối tham gia xét xử mà không có lý do chính đáng, dẫn đến tình trạng đến ngày mở phiên tòa hội thẩm vắng mặt đột xuất, làm cho phiên tòa phải trì hoãn nhiều lần do không có hội thẩm thay thế, hoặc hội thẩm từ chối tham gia xét xử dù đã được mời nhiều lần. Việc quy định chánh án lựa chọn hội thẩm tham gia xét xử mà chưa có quy định cụ thể về cách thức, trình tự, thủ tục lựa chọn, dẫn đến sự thiếu thống nhất khi triển khai thực hiện, không bảo đảm tính khách quan, tạo tâm lý e ngại đối với một số hội thẩm.
Thứ hai, cách thức tổ chức thực hiện cơ chế nhân dân tham gia còn có phần hình thức, chưa phản ánh đúng vị trí, vai trò của nhân dân trong tham gia hoạt động xét xử.
Trong cơ cấu thành phần hội thẩm chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức đang công tác, cán bộ hưu trí, thiếu vắng những người đại diện cho các thành phần, tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội(2). Do đó, việc tham gia hoạt động xét xử của hội thẩm chưa thực sự phản ánh đầy đủ ý chí, quan điểm, nhận thức của đại bộ phận người dân. Công tác tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ xét xử cho hội thẩm thực hiện chưa thống nhất trên phạm vi toàn quốc; chưa xây dựng được bộ tài liệu tập huấn nghiệp vụ xét xử chuyên sâu, thống nhất cho hội thẩm; thời gian tập huấn hạn hẹp dẫn tới chưa đáp ứng được nhu cầu về khối lượng và chất lượng nội dung cần tập huấn, bồi dưỡng.Mặt khác, do chưa có cơ chế bắt buộc hội thẩm tham gia đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nên nhiều hội thẩm không tham gia hoặc tham gia không đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, hội nghị sơ kết, tổng kết.
Thứ ba, một số chế độ, chính sách đối với hội thẩm chưa phù hợp, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của hội thẩm.
Hiện nay, chế độ bồi dưỡng phiên tòa đối với hội thẩm còn thấp (90.000 đồng/ngày), không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Trang phục của hội thẩm khi xét xử là thường phục nên tạo ra hình ảnh hội đồng xét xử không đồng nhất, chưa thể hiện tính tôn nghiêm của hoạt động xét xử. Chưa đề cao sự tôn vinh của xã hội đối với những đóng góp của hội thẩm cho cộng đồng. Chưa có cơ chế bảo vệ hội thẩm và gia đình của họ, dẫn đến tình trạng hội thẩm ngại va chạm, né tránh hoặc từ chối tham gia xét xử, đặc biệt là xét xử các vụ án lớn, nhạy cảm, nghiêm trọng, phức tạp.
Những hạn chế, bất cập nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, có thể kể đến, như nhận thức của người dân và xã hội chưa thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc hội thẩm tham gia xét xử tại tòa án; một số quy định của pháp luật về hội thẩm chưa phù hợp với vị trí, vai trò của hội thẩm; việc thực thi pháp luật chưa đầy đủ, nghiêm túc.
Cơ chế tham gia hoạt động xét xử của người dân ở một số quốc gia trên thế giới
Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhân dân tham gia hoạt động xét xử là cơ chế có tính phổ quát ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hoạt động tư pháp hiện nay tồn tại phổ biến 3 mô hình nhân dân tham gia hoạt động xét xử: Mô hình bồi thẩm đoàn (hội thẩm đoàn) ở Anh, Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Ca-na-đa, Bồ Đào Nha, Phi-líp-pin, Hồng Kông (Trung Quốc); mô hình hội thẩm nhân dân ở Việt Nam, Trung Quốc; mô hình đan xen, kết hợp hai mô hình trên ở Nga.
Một là, mô hình bồi thẩm đoàn (hội thẩm đoàn).
Bồi thẩm đoàn là một nhóm người được chọn theo luật, được trao quyền quyết định các vấn đề về tình tiết vụ án và quyết định đối với vụ án mà họ được giao(3). Phạm vi tham gia của bồi thẩm đoàn hầu như chỉ trong các vụ án hình sự. Đa số các nước quy định bị cáo hoặc đương sự có quyền đề nghị được xét xử bằng phiên tòa có bồi thẩm đoàn, nghĩa là, họ có quyền lựa chọn hoặc từ chối bồi thẩm đoàn. Khung tiêu chuẩn để làm bồi thẩm tại các nước cơ bản giống nhau, bao gồm các tiêu chuẩn về: quốc tịch; điều kiện cư trú; độ tuổi; trình độ học vấn; sức khỏe và phẩm chất đạo đức. Quy trình lựa chọn bồi thẩm tham gia xét xử tại tòa án được thực hiện theo nguyên tắc ngẫu nhiên và tuân theo thủ tục chặt chẽ.
Về thẩm quyền, pháp luật của nhiều nước quy định trách nhiệm của bồi thẩm đoàn trong quá trình xét xử là xác định sự thật của vụ án. Theo đó, dựa trên cơ sở các bằng chứng, tài liệu và lập luận của các bên tại phiên tòa, bồi thẩm đoàn có trách nhiệm trả lời 4 câu hỏi: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không; bị cáo có phải là người thực hiện hành vi phạm tội đó hay không; bị cáo có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội hay không;nếu bị cáo có tội thì có đáng được khoan hồng hay không. Việc quyết định hình phạt và ra bản án là nhiệm vụ của thẩm phán. Tại Mỹ, ở cấp tòa án liên bang, phán quyết của bồi thẩm đoàn được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận tuyệt đối; ở cấp bang, nguyên tắc này chỉ được áp dụng cho những tội phạm nghiêm trọng nhất, các tội phạm khác thì mức độ đồng thuận có thể thấp hơn. Nếu bồi thẩm đoàn không ra được phán quyết thì có thể triệu tập bồi thẩm đoàn mới. Đây là mô hình thể hiện mạnh mẽ tính dân chủ trong hoạt động xét xử. Bồi thẩm đoàn không phải thực hiện những nhiệm vụ vượt quá yêu cầu đối với vị trí, vai trò và trình độ hiểu biết của họ trong xét xử.Quyết định do bồi thẩm đoàn đưa ra phản ánh quan điểm, nhận thức của xã hội và dễ được cộng đồng chấp nhận, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào các phán quyết của tòa án. Hơn nữa, theo luật pháp một số nước, việc có bồi thẩm đoàn tham gia xét xử hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý kiến của bị cáo. Nếu bị cáo từ chối bồi thẩm đoàn thì tòa án sẽ chấp nhận. Quy định như vậy có lợi cho bị cáo trong việc lựa chọn phương án tối ưu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; đồng thời, bảo đảm tốt hơn việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ngoài ra, do nhiều người dân bình thường được tham gia xét xử nên có tác dụng rất tốt trong phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tuy nhiên, việc xét xử có bồi thẩm đoàn phải trải qua nhiều công đoạn, có nhiều người tham gia nên tốn thời gian. Bên cạnh đó, bồi thẩm tham gia xét xử một cách thụ động nên dễ có xu hướng cảm tính, bị ảnh hưởng bởi các thông tin báo chí hoặc mang định kiến cá nhân khi đưa ra quyết định, do đó, vô hình trung ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Trong điều kiện mạng xã hội phát triển và nhiều mặt trái bị lợi dụng như hiện nay, nhược điểm này bộc lộ rõ ràng hơn. Trong mô hình này, do bồi thẩm là người dân bình thường nên năng lực của luật sư có ảnh hưởng rất lớn đến phán quyết của bồi thẩm đoàn. Điều này có thể dẫn đến tình trạng các luật sư giỏi sẽ được nhiều người thuê và gây bất công cho những người nghèo không có điều kiện để thuê luật sư giỏi với chi phí cao.
Hai là, mô hình hội thẩm nhân dân.
Hội thẩm nhân dân gồm những người được bầu, cử hoặc bổ nhiệm tùy theo pháp luật của mỗi nước. Nhiệm kỳ của hội thẩm theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra họ. Việc đảm nhiệm cương vị hội thẩm nhân dân là quyền và nghĩa vụ của công dân. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ án hình sự, dân sự và hành chính. Tuy nhiên, không phải tất cả các phiên tòa hình sự, dân sự, hành chính đều có hội thẩm nhân dân tham gia(4). Công dân muốn được làm hội thẩm nhân dân phải hội đủ các tiêu chuẩn: Trung thành với Hiến pháp; đủ độ tuổi nhất định; tuân thủ kỷ luật và pháp luật, có tư cách đạo đức, công bằng; có đủ sức khỏe làm việc. Về thẩm quyền, hội thẩm nhân dân và thẩm phán hợp thành hội đồng xét xử, do thẩm phán làm chủ tọa. Hội thẩm nhân dân được nghiên cứu hồ sơ trước khi xét xử. Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán trong hội đồng xét xử khi đưa ra các phán quyết về vụ án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo Luật Hội thẩm nhân dân Trung Quốc thì thẩm quyền của hội thẩm nhân dân tham gia ở hội đồng xét xử gồm ba người và hội đồng xét xử gồm bảy người là khác nhau. Đối với hội đồng xét xử có ba người thì hội thẩm có quyền phát biểu ý kiến độc lập và có quyền biểu quyết khi xác định sự thật vụ án và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, với hội đồng xét xử có bảy người, hội thẩm nhân dân chỉ có quyền phát biểu ý kiến độc lập về xác định sự thật của vụ án và biểu quyết cùng với thẩm phán; về áp dụng pháp luật có thể phát biểu ý kiến nhưng không được tham gia biểu quyết. Hội đồng xét xử nghị án thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Đây là mô hình thể hiện rõ nét bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; khuyến khích sự tham gia tích cực của nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền, bảo vệ công lý. Thông qua hoạt động xét xử tại tòa án, hội thẩm nhân dân đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; góp phần nâng cao ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
Tuy nhiên, việc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử và có quyền biểu quyết cùng với thẩm phán theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số nhưng đa phần hội thẩm nhân dân thiếu kiến thức pháp luật, thiếu kỹ năng, nghiệp vụ xét xử nên trong một số trường hợp, ý kiến của họ có thể bị lệ thuộc vào thẩm phán, thiếu tính độc lập, khách quan. Hội thẩm nhân dân cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các định kiến cá nhân của mình, hoặc các thông tin trên báo chí về vụ án mà mình tham gia xét xử. Bên cạnh đó, việc hội thẩm nhân dân phải tham gia xét xử trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có những lĩnh vực cần kiến thức chuyên ngành cao không phải là thế mạnh của họ cũng dẫn đến khó khăn trong việc nhận diện vấn đề và đưa ra quyết định giải quyết vụ án.
Ba là, mô hình đan xen.
Mô hình đan xen là mô hình vừa có bồi thẩm đoàn tham gia xét xử các vụ án hình sự tương tự như mô hình bồi thẩm đoàn, vừa có hội thẩm tham gia xét xử các vụ án tương tự như mô hình hội thẩm nhân dân. Điển hình cho việc áp dụng mô hình này là Nga. Quốc gia này trước đây áp dụng chế định hội thẩm, nhưng sau đó đã chuyển sang mô hình bồi thẩm đoàn tham gia xét xử một số vụ án hình sự. Tuy nhiên, đối với phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án dân sự, kinh tế, Nga vẫn quy định cho đương sự được quyền lựa chọn phiên tòa xét xử bằng hội đồng gồm 01 thẩm phán và 2 hội thẩm. Trường hợp đơn yêu cầu giải quyết vụ án với sự tham gia của hội thẩm được chấp nhận, ứng viên hội thẩm được quyết định từ danh sách hội thẩm dựa theo nghề nghiệp chuyên môn bằng cách lựa chọn ngẫu nhiên từ hệ thống thông tin tự động hoặc phương thức khác được sử dụng để thành lập hội đồng xét xử. Khi giải quyết vụ án, hội thẩm có quyền và nghĩa vụ như thẩm phán. Thẩm phán và hội thẩm xem xét, quyết định tất cả các vấn đề cần phải giải quyết của vụ án và ra bản án, quyết định với vai trò như nhau. Hội thẩm không được là chủ tọa phiên tòa(5).
Đây là mô hình rất linh hoạt, phát huy được ưu điểm của cả mô hình bồi thẩm đoàn và mô hình hội thẩm nhân dân. Mô hình này tăng cường tối đa và bảo đảm cho sự tham gia tích cực, đầy đủ của nhân dân vào hoạt động xét xử của tòa án. Sự kết hợp đan xen này đã phát huy tác dụng không chỉ trong lĩnh vực hình sự mà còn trong cả lĩnh vực dân sự, kinh tế; bảo đảm tính chuyên môn trong hoạt động xét xử các vụ án, từ đó nâng cao chất lượng xét xử của tòa án. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, pháp luật các quốc gia cũng ngày càng có sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau, đặc biệt là đối với các quốc gia có hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ. Do đó, xu hướng mở rộng sự tham gia của nhân dân vào việc xác định sự thật của vụ án, tăng cường tính chuyên nghiệp trong việc áp dụng pháp luật của thẩm phán đã trở thành xu hướng phổ biến của tư pháp hiện đại.
Định hướng đổi mới và hoàn thiện chế định hội thẩm nhằm tăng cường sự tham gia của nhân dân trong hoạt động xét xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới
Trong xu thế cải cách tư pháp mạnh mẽ, để tăng cường hơn nữa sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xét xử, khắc phục những hạn chế của chế định hội thẩm hiện hành, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, thời gian tới, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế định hội thẩm với những giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế hiện hành về hội thẩm tham gia xét xử.
Mở rộng cơ cấu thành phần, đối tượng tham gia làm hội thẩm theo hướng lựa chọn những công dân đáp ứng đủ tiêu chuẩn, không phân biệt thành phần, tầng lớp xã hội nhằm bảo đảm hội thẩm thực sự là người đại diện cho nhân dân, phản ánh đầy đủ ý chí, quan điểm, nhận thức của đại bộ phận nhân dân trong quá trình xét xử; đồng thời, khắc phục hạn chế về thành phần hội thẩm chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức (đang công tác hoặc đã nghỉ hưu) như hiện nay. Đổi mới về tiêu chuẩn hội thẩm bao gồm - Quy định người được bầu làm hội thẩm phải từ đủ 27 tuổi trở lên (tương đương độ tuổi có thể được bổ nhiệm làm thẩm phán), người trên 60 tuổi có quyền từ chối làm hội thẩm. Quy định này nhằm bảo đảm cho việc lựa chọn được những hội thẩm là người có sức khỏe, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có hiểu biết xã hội; đồng thời, vẫn bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Người cao tuổi.
- Không quy định tiêu chuẩn “có kiến thức pháp luật” là tiêu chuẩn bắt buộc đối với hội thẩm; đồng thời bổ sung tiêu chuẩn: “có kiến thức chuyên môn về kinh tế, tài chính - ngân hàng, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, tài nguyên - môi trường, xây dựng cơ bản..., lao động, gia đình và người chưa thành niên” đối với một tỷ lệ nhất định để mở rộng đối tượng hội thẩm tham gia xét xử các vụ án có chuyên môn đặc thù tương ứng. Trong các vụ án này, nếu lựa chọn được hội thẩm là người có kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực tranh chấp tương ứng thì đây sẽ là sự bổ sung hữu ích để cùng thẩm phán đưa ra phán quyết chính xác hơn, gia tăng sự tin cậy của xã hội đối với phán quyết của tòa án; đồng thời, có thể tránh việc vụ án bị xét xử kéo dài, qua nhiều vòng tố tụng. Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử mang đến phiên tòa những quan niệm đạo đức chung của xã hội, sự nhận xét, đánh giá của nhân dân về hành vi phạm tội, về tính chất của các tranh chấp theo quan niệm chung về lẽ phải, sự công bằng; cùng với thẩm phán đưa ra bản án có lý, có tình, thuyết phục, tạo được sự đồng thuận trong xã hội, khắc phục được tình trạng pháp lý thuần túy. Việc bảo đảm về mặt pháp lý trong quá trình xét xử và ra bản án thuộc trách nhiệm của thẩm phán. Vì vậy, không cần thiết phải quy định “có kiến thức pháp luật” là tiêu chuẩn bắt buộc đối với hội thẩm.
- Hoàn thiện các quy định về nhiệm kỳ, tuyển chọn, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, quản lý hội thẩm. Hoàn thiện các quy định về nhiệm kỳ của hội thẩm theo hướng quy định nhiệm kỳ của hội thẩm bằng nửa nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân bầu ra hội thẩm. Một người không được tham gia làm hội thẩm 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Việc giảm thời gian giữ nhiệm kỳ của hội thẩm như trên nhằm bảo đảm cho một hội thẩm không phải tham gia xét xử quá nhiều, tăng cơ hội cho nhiều người dân được tham gia vào việc xét xử của tòa án. Đồng thời, phòng tránh hiện tượng tác động, tranh thủ, lôi kéo tiêu cực đội ngũ hội thẩm. Hoàn thiện quy trình tuyển chọn, bầu hội thẩm theo hướng bổ sung cơ quan công an tham gia vào quá trình lập danh sách người có đủ tiêu chuẩn làm hội thẩm; bổ sung quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân hàng, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, tài nguyên - môi trường, xây dựng cơ bản, bảo vệ người lao động, gia đình và người chưa thành niên, có quyền giới thiệu ứng cử viên hội thẩm có kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực tương ứng. Việc bầu hội thẩm được thực hiện tại phiên họp đầu tiên và phiên họp giữa nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân. Bổ sung quy định hội thẩm phải cam kết công tâm, khách quan, liêm chính và tuân thủ pháp luật khi được bầu. Hoàn thiện thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm hội thẩm theo hướng: Bổ sung trường hợp hội thẩm bị xem xét bãi nhiệm nếu nhiều lần từ chối tham gia xét xử, làm ảnh hưởng đến việc triển khai công tác xét xử một cách bình thường mà không có lý do chính đáng. Bổ sung quy định cơ quan công an có nghĩa vụ thông báo cho tòa án nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến tư cách cá nhân của hội thẩm. Hoàn thiện cơ chế quản lý hội thẩm theo hướng giao cho hội đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp xây dựng quy chế phối hợp và tổ chức thực hiện tốt hơn việc quản lý, giám sát đối với hội thẩm. Hai cơ quan này phối hợp quản lý đội ngũ hội thẩm từ việc thực thi nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức đến việc tạo điều kiện thuận lợi để họ được bố trí thời gian hợp lý tham gia công tác tại tòa án, cũng như bảo đảm các biện pháp bảo vệ hội thẩm và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết, nhằm tăng cường tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của hội thẩm đối với tòa án.
- Xây dựng cơ chế xử lý xung đột quan điểm giải quyết vụ án giữa thẩm phán và hội thẩm trong hội đồng xét xử theo hướng: Đối với vụ án hình sự, nếu hội thẩm cho rằng bị cáo có tội còn thẩm phán cho rằng, bị cáo không phạm tội thì quyết định theo đa số; thành viên có quan điểm thiểu số được bảo lưu ý kiến, ghi rõ trong biên bản nghị án. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải báo cáo bằng văn bản việc các thành viên hội đồng xét xử có quan điểm không thống nhất về đường lối giải quyết vụ án để tòa án có thẩm quyền xem xét. Trường hợp hội thẩm cho rằng bị cáo không phạm tội còn thẩm phán cho rằng bị cáo có tội thì trong báo cáo của thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải có thêm nội dung kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét lại vụ án theo quy định của pháp luật. Đối với vụ án khác (dân sự, hành chính...), nếu hội thẩm hoặc thẩm phán có quan điểm khác với quan điểm của đa số các thành viên hội đồng xét xử thì quyết định theo đa số; thành viên có quan điểm thiểu số được bảo lưu ý kiến, ghi rõ trong biên bản nghị án. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải báo cáo tòa án có thẩm quyền bằng văn bản các quan điểm không thống nhất về đường lối giải quyết vụ án để xem xét có cần thiết hay không kháng nghị phúc thẩm.
- Xây dựng quy chế về hội thẩm trong đó xác định rõ trách nhiệm của hội thẩm; mối quan hệ phối hợp giữa thẩm phán và hội thẩm trong hội đồng xét xử; đồng thời, xây dựng bộ quy tắc đạo đức của hội thẩm trên cơ sở các nguyên tắc đạo đức cơ bản, như độc lập, chính trực, liêm chính, khách quan, đúng mực.
- Ban hành quy định lựa chọn ngẫu nhiên hội thẩm từ danh sách hội thẩm để tham gia xét xử các vụ án cụ thể, nhằm bảo đảm sự khách quan, vô tư của chánh án tòa án khi đề nghị hội thẩm tham gia xét xử.
Thứ hai, nghiên cứu, bổ sung chế định hội thẩm đoàn trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Đối với các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, việc xét xử được thực hiện với sự tham gia của cả hai chế định: hội đồng xét xử và hội thẩm đoàn. Theo đó, hội đồng xét xử bao gồm thẩm phán và hội thẩm nhân dân như quy định của pháp luật hiện hành. Hội thẩm đoàn là thiết chế mới bổ sung để nâng cao chất lượng và tăng thêm sự tham gia của nhân dân trong các vụ án hình sự nghiên trọng. Chế định hội thẩm đoàn sẽ được nghiên cứu để quy định bằng văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, nhưng về cơ bản sẽ gồm những nội dung sau:
- Thành lập hội thẩm đoàn: Chánh án tòa án chọn ngẫu nhiên các thành viên hội thẩm đoàn từ danh sách hội thẩm và ra quyết định thành lập hội thẩm đoàn với số lượng theo quy định đối với từng vụ án.
- Số lượng thành viên hội thẩm đoàn: Tùy từng loại vụ án cụ thể mà số lượng thành viên hội thẩm đoàn tham gia xét xử là khác nhau. Đối với vụ án mà bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử về tội đặc biệt nghiêm trọng thì số lượng thành viên hội thẩm đoàn là 9 thành viên. Đối với vụ án mà bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử về tội rất nghiêm trọng thì số lượng thành viên hội thẩm đoàn là 7 thành viên.
- Thẩm quyền: Hội thẩm đoàn sẽ xem xét, cho ý kiến về việc bị cáo có tội hay không có tội trên cơ sở trả lời các vấn đề sau đây theo nguyên tắc đa số: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không; bị cáo có phải là người thực hiện hành vi phạm tội đó hay không; bị cáo có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội hay không;nếu bị cáo có tội thì có đáng được khoan hồng (như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt...) hay không.Ý kiến của hội thẩm đoàn có ý nghĩa tham vấn đối với hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến việc xác định sự thật của vụ án và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án: Tội danh; mức hình phạt; trách nhiệm dân sự; những nội dung khác theo luật định. Trường hợp hội đồng xét xử có quan điểm khác với hội thẩm đoàn thì ngay sau khi kết thúc phiên tòa, thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải có văn bản báo cáo tòa án có thẩm quyền xem xét theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.
- Chế độ, chính sách của thành viên hội thẩm đoàn được thực hiện như chế độ, chính sách của hội thẩm tham gia hội đồng xét xử (trừ trang phục).
- Bị can, bị cáo có quyền từ chối việc xét xử có hội thẩm đoàn.
Thứ ba, đổi mới cơ cấu, thành phần hội thẩm trong hội đồng xét xử theo hướng giảm số lượng hội thẩm, tăng số lượng thẩm phán.
Việc cơ cấu lại thành phần hội đồng xét xử theo hướng nêu trên vừa bảo đảm nâng cao tính chuyên môn, vừa bảo đảm tính đại diện cho nhân dân trong công tác xét xử; đồng thời, khắc phục được hạn chế của pháp luật hiện hành về quy định hội thẩm chiếm đa số trong thành phần hội đồng xét xử nhưng không được đào tạo bài bản về pháp luật, trang bị kỹ năng, nghiệp vụ xét xử và không có thời gian nghiên cứu hồ sơ như thẩm phán, nên có thể dẫn đến việc đưa ra các phán quyết chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Trong khi đó, thẩm phán là người phải chịu trách nhiệm chính trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại tòa án cũng như trong việc ra bản án, quyết định nhưng lại chiếm thiểu số trong hội đồng xét xử.
Thứ tư, tăng cường trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của hội thẩm khi tham gia xét xử một số loại vụ án đặc thù.
Đối với các vụ án có tính chất đặc thù về kinh tế, tài chính - ngân hàng, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, tài nguyên - môi trường, xây dựng cơ bản... thì hội thẩm được lựa chọn để tham gia hội đồng xét xử phải là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực tương ứng trong danh sách hội thẩm. Đối với các vụ án về lao động, hôn nhân - gia đình, vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng thì hội thẩm được lựa chọn để tham gia hội đồng xét xử phải là người hiểu biết về tâm lý của người dưới 18 tuổi, là người làm công tác giáo dục, cán bộ của Hội Phụ nữ, Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Thứ năm, tăng cường đào tạo, bồi dưỡngkỹ năng, nghiệp vụ xét xửcho hội thẩm.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ xét xử bằng hình thức trực tuyến hoặc trực tiếp cho hội thẩm ngay sau khi được bầu và trong suốt quá trình tham gia công tác xét xử tại tòa án. Xây dựng chương trình, kế hoạch và tài liệu đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ xét xử cho hội thẩm thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên và theo chuyên đề cho hội thẩm theo quy định và nhu cầu thực tế. Việc đào tạo, bồi dưỡng cần tập trung vào: Kiến thức, hiểu biết về hệ thống pháp luật; kỹ năng nghiên cứu hồ sơ; kỹ năng xét hỏi của hội thẩm trong phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng đánh giá chứng cứ. Tăng cường tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm với sự tham gia của hội thẩm tại phiên họp rút kinh nghiệm ngay sau khi kết thúc phiên tòa. Thông qua các nội dung rút kinh nghiệm sau phiên tòa, sẽ giúp cho hội thẩm có thể tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, học hỏi nâng cao về kỹ năng, trình độ nghiệp vụ trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án. Đây có thể coi là phương thức học tập thực tế, là cơ hội tốt để những người tiến hành tố tụng nói chung, hội thẩm nói riêng trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ.
Thứ sáu, hoàn thiện chế độ, chính sách đối với hội thẩm.
Tiếp tục thực hiện những chế độ, chính sách đối với hội thẩm theo quy định của pháp luật(6), đồng thời bổ sung một số chế độ, chính sách: xây dựng cơ chế bảo vệ thẩm phán, hội thẩm và gia đình nhằm bảo đảm cho họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ xét xử; trang bị áo choàng xét xử cho hội thẩm nhằm tạo hình ảnh thống nhất trong hội đồng xét xử(7); quy định rõ cơ chế tôn vinh, khen thưởng hội thẩm hoàn thành tốt nghĩa vụ công dân khi tham gia hoạt động xét xử của tòa án.
Thứ bảy, hoàn thiện hệ thống pháp luật về hội thẩm và hội thẩm đoàn.
Trên cơ sở những định hướng đổi mới và hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia xét xử nêu trên, cần nghiên cứu, xây dựng một đạo luật độc lập về hội thẩm và hội thẩm đoàn. Luật Hội thẩm và Hội thẩm đoàn sẽ pháp điển hóa các quy định về hội thẩm trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác; đồng thời, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay, phù hợp với xu hướng phát triển của tư pháp tiến bộ trên thế giới./.
Theo PGS, TS. NGUYỄN HÒA BÌNH/Tạp chí Cộng sản
--------------
(1) Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số 1213/2016/UBTVQH13, ngày 13-6-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ban hành “Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm”; Nghị quyết số 1214/2016/UBTVQH13, ngày 13-6-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, “Về trang phục của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; giấy chứng minh Thẩm phán, giấy chứng minh Hội thẩm”; Nghị quyết liên tịch số 05/2005/NQLT/TANDTC-BNV-UBTWMTTQVN, ngày 5-12-2005, của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, “Về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân”; Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN, ngày 1-3-2004, của Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, “Về việc hướng dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân”; Thông tư số 03/2009/TT-TANDTC, ngày 5-3-2009, của Tòa án nhân dân tối cao, ”Hướng dẫn việc giới thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân”
(2) Theo số liệu thống kê, trong cơ cấu thành phần hội thẩm hiện nay có đến 99,95 % hội thẩm đại diện cho 7% dân số Việt Nam là cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng hưu trí, nhưng chỉ có 0,03% hội thẩm đại diện cho 93% dân số còn lại tham gia hoạt động xét xử của tòa án
(3) Black Law Dictionary (Mỹ), xuất bản lần thứ 7, 1999, tr. 860
(4) Theo Điều 17, Luật Hội thẩm nhân dân Trung Quốc: “Trong trường hợp bị cáo trong vụ án hình sự sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn trong vụ án dân sự, nguyên đơn trong vụ án hành chính đề nghị Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử, Tòa án nhân dân có thể quyết định thành lập Hội đồng xét xử gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử”
(5) Điều 19, Bộ luật Tố tụng trọng tài Nga
(6) Quy định tại Điều 88, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
(7) Đối với thành viên hội thẩm đoàn thì mặc thường phục khi xét xử.