Đơn vị sự nghiệp công lập đa ngành ở cấp xã - bước đi kịp thời vì người dân và kỷ cương

Chủ trương thành lập đơn vị sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ đa ngành, đa lĩnh vực ở cấp xã tại Công văn 20/CV-BCĐ nhằm gom các đầu mối dịch vụ công thiết yếu về một nơi, giảm phân tán nguồn lực và nâng chất lượng phục vụ ngay tại cơ sở.

Từ chồng chéo đến một cửa

Nhiều năm qua, cải cách hành chính ở cơ sở đã tạo chuyển biến rõ rệt nhưng vẫn tồn tại tình trạng chồng lấn chức năng, đầu mối phân tán và quy trình rời rạc giữa các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin - truyền thông, môi trường, đô thị hay khuyến nông. Người dân khi cần dịch vụ công thường phải liên hệ nhiều bộ phận khác nhau, làm tăng chi phí thời gian và phát sinh nguy cơ đùn đẩy trách nhiệm. Trước thực tế đó, việc thiết kế một đầu mối đa ngành ở cấp xã là lựa chọn hợp lý để sắp xếp lại hệ thống, theo hướng “gần dân nhất xử lý trước”, đồng thời vẫn đặt toàn bộ hoạt động trong khung pháp lý thống nhất.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Về thẩm quyền, luật pháp hiện hành quy định UBND cấp xã được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc theo đúng quy định. Trên nền tảng đó, các văn bản hướng dẫn gần đây làm rõ hai tầng trách nhiệm. Tầng thứ nhất là cấp xã: quyết định thành lập hoặc tổ chức lại một đơn vị sự nghiệp công lập đa ngành, đa lĩnh vực để trực tiếp cung ứng nhóm dịch vụ công cơ bản, thiết yếu trên địa bàn. Tầng thứ hai là cấp tỉnh: ban hành quy định về tên gọi, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của đơn vị này, căn cứ đặc thù địa phương và hướng dẫn chuyên ngành. Cách phân vai như vậy giúp bảo đảm vừa linh hoạt vừa kỷ cương: cấp gần dân nhất chủ động vận hành, cấp có thẩm quyền cao hơn giữ vai trò “kiến trúc sư” nhằm tránh chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các địa bàn.

Một điểm đáng chú ý là yêu cầu bổ sung nhiệm vụ khuyến nông vào đơn vị đa ngành. Khuyến nông vốn là dịch vụ công lâu đời gắn với nông thôn, liên quan trực tiếp tới chuyển đổi cơ cấu cây trồng – vật nuôi, bảo tồn giống bản địa, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, phòng trừ dịch bệnh… Khi đặt cùng mái nhà với văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin - truyền thông và môi trường, khuyến nông không bị tách rời mà được hưởng lợi từ truyền thông thay đổi hành vi, từ kết nối du lịch nông nghiệp hay từ các chương trình bảo vệ môi trường. Mối liên kết này phản ánh quan điểm quản trị hiện đại: nhiều vấn đề dân sinh thực chất là liên ngành, cần một đầu mối đủ quyền hạn để điều phối và chịu trách nhiệm.

Cũng cần nhấn mạnh rằng thiết kế mô hình hiện nay được triển khai đồng bộ nhưng vẫn thận trọng về pháp lý. Ở những nội dung đã có quy định rõ ràng, địa phương tổ chức thực hiện ngay. Ở những phần còn chờ văn bản cập nhật, các hướng dẫn chuyển giao nguyên tắc xử lý và lộ trình thực hiện, tránh tình trạng “đi trước khung pháp lý”. Nhờ vậy, tiến độ triển khai có thể nhanh mà không tạo rủi ro sai phạm thủ tục.

Một đầu mối, nhiều dịch vụ

Đơn vị sự nghiệp công lập đa ngành ở cấp xã là một tổ chức sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm, tập trung cung ứng dịch vụ công thiết yếu trên địa bàn. Danh mục nhiệm vụ không áp cứng theo khuôn chung, mà được xác định theo nhu cầu địa phương và hướng dẫn chuyên ngành, thường bao gồm các mảng như văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin - truyền thông, môi trường, đô thị và khuyến nông. Cách tiếp cận là “nhiệm vụ đi trước, tổ chức theo sau”: địa phương rà soát thực tiễn, xác định dịch vụ cần cung ứng, từ đó thiết kế bộ máy, quy trình, định mức nhân sự tương thích để đảm bảo thực thi.

Về cơ cấu nội bộ, quy định đặt ra các tiêu chí tối thiểu để tránh hình thành phòng ban theo phong trào. Một phòng chỉ được thành lập khi thực sự đảm nhiệm ít nhất hai mảng công tác và có quy trình quản lý riêng, nhằm bảo đảm khối lượng việc đủ lớn, có tính liên thông và có thể kiểm soát chất lượng. Ngưỡng biên chế tối thiểu cho một phòng được xác lập để tránh tình trạng “nhiều phòng ít người”, dẫn đến tăng tầng nấc nhưng giảm hiệu quả. Số lượng cấp phó bị giới hạn để tối ưu đường dây chỉ huy, giảm chi phí quản trị và làm rõ trách nhiệm người đứng đầu.

Về con người, đơn vị hoạt động trên cơ sở tổng biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước (không tính biên chế giáo dục, y tế) do cấp có thẩm quyền giao. UBND cấp xã chịu trách nhiệm tuyển dụng, bố trí viên chức phù hợp với vị trí việc làm đã được phê duyệt, bảo đảm đúng chuyên môn, đúng tiêu chuẩn và đáp ứng được khối lượng công việc. Trong giai đoạn đầu, nếu chưa tuyển đủ, cấp xã được phép ký hợp đồng lao động với người có chuyên môn để đáp ứng nhu cầu phục vụ ngay, trên cơ sở các quy định hiện hành về tuyển dụng, sử dụng lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ chế này vừa bảo đảm không gián đoạn dịch vụ, vừa cho phép đơn vị “chạy thử” quy trình, rút kinh nghiệm trước khi hoàn thiện biên chế lâu dài.

Về quy trình làm việc, đơn vị cần chuẩn hóa các bước tiếp nhận - xử lý - trả kết quả theo từng nhóm dịch vụ, gắn với mốc thời gian, người chịu trách nhiệm và yêu cầu về chất lượng. Khi xử lý các nhiệm vụ liên ngành, người đứng đầu phải phân công rõ một đầu mối điều phối, đồng thời quy định chế độ phối hợp giữa các phòng và với các cơ quan chuyên môn cấp huyện, cấp tỉnh. Như vậy, người dân chỉ cần liên hệ một nơi để được hướng dẫn và giải quyết, còn phần việc phối hợp liên ngành diễn theo quy trình liên thông đã chuẩn hóa.

Khi đưa vào vận hành, việc ứng dụng công nghệ thông tin là yêu cầu tất yếu. Các biểu mẫu, sổ sách, dữ liệu nghiệp vụ cần được số hóa để theo dõi tiến độ, đo lường chất lượng và liên thông với hệ thống một cửa điện tử của địa phương. Các mảng như vệ sinh môi trường, quản lý thiết chế văn hóa - thể thao… có thể được tích hợp lên một bảng điều khiển chung cho cấp xã. Nhờ vậy, lãnh đạo có căn cứ để phân bổ nguồn lực theo thời điểm, còn người dân dễ dàng tra cứu, phản ánh và giám sát.

Dân được lợi, hệ thống bền là điều kiện để mô hình chạy tốt

Lợi ích đầu tiên và rõ nhất là tiết kiệm chi phí giao dịch cho người dân và tổ chức. Khi các dịch vụ công thiết yếu được “gom” về một đầu mối ở cấp xã, người dân không còn phải đi lại nhiều nơi, mỗi nhu cầu đều có quy trình rõ ràng và người chịu trách nhiệm cụ thể. Thời gian xử lý được rút ngắn, chất lượng phục vụ đồng đều hơn nhờ tiêu chuẩn hóa biểu mẫu, thời hạn và cơ chế phối hợp nội bộ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với nhóm dân cư ở vùng xa trung tâm huyện, thị trấn, nơi chi phí đi lại và tiếp cận thông tin cao hơn.

Lợi ích thứ hai là nâng hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Khi các mảng việc vốn có liên quan được đặt dưới cùng một mái nhà, địa phương dễ dàng điều chuyển nhân lực theo mùa vụ và theo nhu cầu đột xuất. Mùa lễ hội có thể tăng cường nhân lực cho văn hóa - du lịch và truyền thông; cao điểm sản xuất nông nghiệp sẽ ưu tiên khuyến nông; khi xảy ra sự cố môi trường, nguồn lực sẽ tập trung cho công tác hiện trường và truyền thông cộng đồng. Việc hạn chế số lượng cấp phó, điều kiện chặt chẽ đối với việc thành lập phòng và xác lập ngưỡng biên chế tối thiểu cũng góp phần tránh phình to bộ máy.

Lợi ích thứ ba là tăng tính minh bạch và khả năng giám sát. Khi quy trình, thời hạn, trách nhiệm được công khai và số hóa, người dân có thể theo dõi hồ sơ, gửi phản ánh và đánh giá chất lượng phục vụ. Cơ quan cấp trên có dữ liệu để kiểm tra, so sánh giữa các xã, từ đó đưa ra điều chỉnh kịp thời về tổ chức và nhân sự. Việc chuẩn hóa quy trình cũng giúp cán bộ mới nhanh chóng nắm việc, hạn chế phụ thuộc vào “kinh nghiệm truyền miệng”, tạo sự bền vững cho hệ thống.

Trong giai đoạn đầu, khó tránh khỏi một số vướng mắc như chậm chuyển đổi hồ sơ, thiếu nhân lực ở một vài vị trí chuyên môn, hay việc phối hợp liên thông chưa thật nhịp nhàng. Những vấn đề này có thể giải quyết bằng kế hoạch chuyển tiếp theo quý, phân công cán bộ đầu mối chịu trách nhiệm từng nhóm dịch vụ, đồng thời ứng dụng công nghệ để theo dõi tiến độ và cảnh báo trễ hạn. Địa phương cũng nên thực hiện cơ chế “đánh giá sau sáu tháng” để rà soát lại danh mục nhiệm vụ, điều chỉnh vị trí việc làm và hoàn thiện quy trình.

Phát huy lợi thế số hóa là hướng đi then chốt. Khi toàn bộ dữ liệu về lịch sự kiện, quản lý thiết chế văn hóa - thể thao, vệ sinh môi trường, phản ánh hiện trường, lịch sản xuất nông nghiệp, kết quả tập huấn khuyến nông, và thông tin truyền thông cộng đồng được cập nhật trên cùng một hệ thống, cấp xã sẽ có bức tranh toàn diện để phân bổ nguồn lực. Mặt khác, người dân có thể tiếp cận dịch vụ qua ứng dụng di động hoặc cổng thông tin điện tử, giảm thêm thời gian và chi phí giao dịch.

Cuối cùng là cơ chế đánh giá chất lượng dịch vụ công. Đơn vị đa ngành cần các chỉ số đo lường kết quả đầu ra theo từng lĩnh vực, như tỷ lệ đúng hạn, mức độ hài lòng của người dân, số sự kiện văn hóa - thể thao được tổ chức an toàn... Kết quả đánh giá phải gắn với khen thưởng - kỷ luật và được công khai để nâng cao trách nhiệm giải trình.

Đức Thuận

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/don-vi-su-nghiep-cong-lap-da-nganh-o-cap-xa-buoc-di-kip-thoi-vi-nguoi-dan-va-ky-cuong-172262.html