Đồng chí Nguyễn Duy Trinh: Lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
Nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Duy Trinh (15.7.1910 - 15.7.2020), lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam, chúng ta cùng nhau ôn lại cuộc đời và những cống hiến to lớn của ông đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Qua đó, giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, học tập và noi theo đồng chí Nguyễn Duy Trinh ra sức thi đua hoàn thành tốt các mục tiêu mà nghị quyết đại hội đảng các cấp đã đề ra, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp.
Người cộng sản kiên cường
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Nghi Thọ (nay là xã Phúc Thọ), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Sớm giác ngộ cách mạng, năm 17 tuổi, đồng chí đã tham gia phong trào đấu tranh chống ách thống trị của đế quốc và phong kiến. Năm 1928, đồng chí tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng, một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động tại Sài Gòn, bị thực dân Pháp bắt, kết án 18 tháng tù. Hai năm sau, đồng chí tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương. Đến năm 1931, đồng chí là Bí thư Huyện ủy Nghi Lộc, đến cuối năm bị bắt và bị kết án 13 năm tù khổ sai, đày đi Buôn Ma Thuột, Kon Tum, rồi Côn Đảo. Năm 1941, mặc dù mãn án tù, nhưng chính quyền thực dân Pháp tiếp tục đày đồng chí Nguyễn Duy Trinh ở ngục tù Kon Tum, vì cho rằng đây là phần tử nguy hiểm.
Tháng 5.1945, sau khi ra tù, đồng chí tham gia vận động khởi nghĩa ở Vinh và Huế. Tại đây, đồng chí đã chỉ đạo xây dựng các cơ sở cách mạng, với vai trò là hạt nhân đứng đầu lãnh đạo phong trào cách mạng, tập hợp đoàn kết các tầng lớp nhân dân để chuẩn bị lực lượng sẵn sàng khi thời cơ đến đứng lên giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được cử làm Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Trung Bộ, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Trung Bộ, Bí thư Khu ủy Khu 5, kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ. Đồng chí luôn bám sát thực tiễn phong trào kháng chiến, tích cực xây dựng căn cứ địa, vùng tự do cách mạng ở Nam Trung Bộ; có nhiều đóng góp trong công tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng Đảng bộ Liên khu 5 nói riêng; trực tiếp lãnh đạo phong trào kháng chiến ở Liên khu 5 phát triển mạnh mẽ.
Tháng 2.1951, tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được phân công làm Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. Năm 1955, đồng chí được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, năm 1956 được bầu vào Ủy viên Bộ Chính trị và được phân công giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng; đến năm 1958 làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Năm 1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng vào chiến lược, sách lược về phát triển kinh tế và cải tạo xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học sát với từng vùng, miền và trong từng thời điểm cách mạng, vì thế đã động viên được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân không ngừng phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Nhà ngoại giao tài năng
Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh đã để lại dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, đặc biệt là trên mặt trận ngoại giao. Đó là việc ký kết Hiệp định Pa-ri kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là chính sách chung sống hòa bình bốn điểm với các nước Đông Nam Á - một chủ trương sáng suốt, kịp thời sau khi thống nhất hai miền, bước mở đầu của chính sách mở cửa, hội nhập, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Tháng 4.1965, trước yêu cầu mới của cách mạng, đồng chí Nguyễn Duy Trinh được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị phân công giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đây là thời kỳ thử thách cam go đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh đã tích cực tham gia xây dựng, hoàn thiện đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng và chính sách ngoại giao của Nhà nước nhằm đoàn kết, tập hợp lực lượng quốc tế giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược... Người dân cả nước nức lòng khi người đứng đầu Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh ra Tuyên bố ngày 28.1.1967 nêu rõ: “Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ mới có thể nói chuyện”. Tuyên bố này là đòn tấn công ngoại giao lớn, nhằm làm thất bại luận điệu “đàm phán không điều kiện” mà Mỹ từng đưa ra suốt hai năm trước đó để làm bình phong leo thang chiến tranh, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán.
Cuộc đàm phán Pa-ri về Việt Nam (từ tháng 5.1968 đến tháng 1.1973) là cuộc đàm phán dài nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh trong thế kỷ XX, là tâm điểm đối chọi giữa nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường với nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Sau gần 5 năm đấu tranh bằng trí tuệ và bản lĩnh với hơn 200 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, cuộc đàm phán đã kết thúc. Ngày 27.1.1973, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh đã chính thức ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng lợi vẻ vang của đàm phán Pa-ri và Hiệp định Pa-ri đã buộc quân Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam Việt Nam, mở đường cho đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước.
Trong thời kỳ xây dựng lại đất nước sau hơn 30 năm bị chiến tranh tàn phá, ngành ngoại giao Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Duy Trinh vừa tranh thủ sự hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa và cộng đồng thế giới, vừa đấu tranh chống bao vây, cấm vận. Chính trong thời kỳ khó khăn ấy, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Liên Hợp quốc. Ngày 21.7.1977, đồng chí Nguyễn Duy Trinh đã thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta tham gia Lễ Thượng cờ tại Trụ sở Liên Hợp quốc và cũng chính đồng chí đã kiến tạo các chuyến thăm của lãnh đạo nước ta với các nước trong khu vực, dẫn tới việc Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN...
Năm 1982, tại Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí Nguyễn Duy Trinh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được phân công làm Thường trực Ban Nghiên cứu chiến lược kinh tế - xã hội của Trung ương Đảng và Chính phủ. Đồng chí là đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh mất năm 1985 tại Hà Nội. Bảy mươi lăm tuổi đời, gần 60 năm hoạt động cách mạng liên tục ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, ở bất cứ cương vị nào, đồng chí cũng chứng tỏ được vai trò, phẩm chất và bản lĩnh của một nhà lãnh đạo có tầm nhìn và tư duy sâu rộng, luôn sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh là một nhà cách mạng, một nhà ngoại giao xuất sắc của Đảng và Nhà nước ta.