Động lực để phát triển hệ thống chính trị
Trong hệ động lực phát triển hệ thống chính trị đổi mới nổi bật lên các động lực chủ yếu: bình đẳng, pháp quyền, dân chủ, minh bạch, phản biện, trách nhiệm, lòng tin.
LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu phần 2, mạch bài “Đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam” của TS Nhị Lê.
Thứ nhất, bình đẳng. Trước pháp luật, mọi tổ chức dù chính trị hay xã hội và mọi cá nhân, mọi giới tính và lứa tuổi đều bình đẳng. Đó là nguyên tắc vận hành một cách dân chủ theo luật định của các thành viên của hệ thống chính trị Việt Nam, xét về tính chỉnh thể. Đó cũng chính là tính tối thượng của pháp luật, sự dân chủ của nền pháp quyền Việt Nam.
Pháp luật phải là tối thượng
Gần đây, các nhà quan sát lại rộ lên rằng, “bất cứ chủ thuyết hay chủ trương điều hành đất nước nào cũng rất khó thành công nếu phải dựa dẫm, tránh né hay thỏa hiệp với người cầm quyền, khi họ lấy sự chi phối chính trị làm mục tiêu”(!); rằng, “… Sự thiếu vắng của giới kỹ trị đã làm cho dự án đang bên bờ vực thẳm, chưa nói đến chuyện quốc phòng và an ninh quốc gia”(!); và, rằng “đã dùng ý chí cho lá phiếu rồi, khi 'ý chí' nhầm tai hại, chẳng ai lại bỏ phiếu tín nhiệm một cách công bằng nữa”(!).
Có thể nói một cách không nghi ngờ rằng, người ta đang cố khoác cho mình mảnh chiến bào với “sứ mệnh” tiếp tục thổi phồng, bảo vệ kỹ trị để phê phán cái gọi là chính trị quyết định tất cả, đối lập giữa chính trị và kỹ trị.
Dỡ bỏ tất cả tối thiểu những điều này thì đó chính là động lực phát triển của hệ thống chính trị nói riêng và nền chính trị Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, pháp quyền. Pháp luật phải là tối thượng với tinh thần quốc pháp bất vị thân. Không thể không xây dựng và phát triển hành lang pháp lý tổng thể và đủ mạnh để kiến tạo hệ thống chính trị đổi mới. Đó là trọng trách của pháp quyền, một bảo đảm căn bản, một động lực chủ yếu để bảo đảm thành công cuộc đổi mới hệ thống chính trị.
Pháp quyền là phương thức hành động tất yếu thực thi chính trị nhân bản; và pháp luật là cái giới hạn tối thượng để thực thi dân chủ một cách tự do và minh bạch đối với chúng ta, mà tất cả đều vì nhân dân! Nhất định nó không phải là là thứ pháp trị vị pháp trị, pháp quyền vị pháp quyền, mà là pháp trị vị tự do, pháp quyền vị dân chủ, vị nhân văn!
Gần đây, ai cũng thấy, ngay trong việc làm trong sạch bộ máy của hệ thống chính trị, chúng ta không thể không “lấy chữ Nhân (nhân trị) làm trọng để giải quyết tham nhũng, làm trong sạch Đảng” nhưng càng không thể không dụng “pháp trị để thẳng tay với quốc nạn đục khoét đất nước”; chúng ta quyết không mơ hồ “không thể để pháp trị ghi trong Hiến pháp nhưng ngoài đời lại dùng nhân trị một cách không đến nơi đến chốn, chỗ này dùng luật khắt khe, ác độc, chỗ kia tha thứ vì bạn bè đồng chí, một cách tùy tiện”.
Thượng tôn pháp luật với quốc pháp bất vị thân!
Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là con đường
Thứ ba, dân chủ. Đó là mục tiêu, là động lực kiến tạo hệ thống chính trị Việt Nam. Nói cách khác, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là con đường. Nó không hề mâu thuẫn với việc tiếp biến các thành tựu của nhân loại: pháp quyền hay kỹ trị…
Cùng với pháp quyền, dân chủ là mục tiêu mà pháp quyền hướng tới; và đến lượt nó, pháp quyền là giềng mối để dân chủ đích thực được thực thi.
Người ta quên (hoặc cố tình) và chối bỏ, rằng nhân dân Việt Nam được tổ chức thành hệ thống chính trị, khi họ thực hiện hành động chính trị để “bầu ra đại biểu thay mặt cho mình thi hành chính quyền”, “cử ra” chính quyền các cấp và “tạo ra” các đoàn thể từ Trung ương tới địa phương.
Nghĩa là, đặc trưng chính trị của Việt Nam, xét về mặt tổ chức chính trị xã hội, rằng nhân dân không chỉ tạo ra Nhà nước mà là cả hệ thống chính trị, rằng Nhà nước chỉ là một bộ phận trong đó. Điều này không giống các nước dân chủ khác. Người ta lại cũng cố quên rằng, nó là một phương thức tổ chức xã hội hiện đại - xem chế độ nhà nước chỉ là một yếu tố tồn tại nhân dân, nhưng không bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ là một hình thức tồn tại đặc biệt của nhân dân. Nhà nước nhỏ và xã hội lớn.
Chúng ta thừa hiểu và không ngừng hành động, Đảng chỉ có thực hiện dân chủ thực sự cho nhân dân, lãnh đạo xã hội để nhân dân là chủ và làm chủ, nâng cao địa vị, quyền hành và năng lực làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước dân, trọng dân, học dân, hiểu dân, hỏi dân, bàn bạc, giải thích cho dân và hành động vì dân, cho dân, thì Nhà nước, Chính phủ mới được dân tin, dân phục, dân yêu.
Nếu không như thế, khi cứ hành động theo kiểu làm bằng được, bất chấp lòng dân, ý dân thì dân oán. Mà “dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại”, như Hồ Chí Minh nói. Và, sự thật không có con đường thực thi dân chủ nào đúng đắn hơn, phù hợp hơn trong thế giới ngày nay!
Thứ tư, minh bạch. Dân chủ, bản thân nó đã bao hàm minh bạch. Nhưng, không có minh bạch thì không có dân chủ hoàn bị! Có thể nói, công khai là “thanh bảo kiếm chữa lành mọi vết thương” của nền dân chủ, của hệ thống chính trị được kiến tạo một cách khoa học nhằm thực thi dân chủ một cách hoàn bị.
Vì vậy, minh bạch và công khai là hai nhân tố động lực của dân chủ để kiểm soát toàn vẹn một cách dân chủ, nhằm thực thi dân chủ một cách đúng đắn và hoàn bị, theo tinh thần pháp quyền. Nhưng, chỉ vì cái gọi là minh bạch lại đòi đẩy tới sự “bạch hóa” một cách trần trụi, vô hạn độ, vô chính trị và văn hóa, như có người kêu gào, thì chính là phản minh bạch, vô hình sỉ nhục dân chủ và báng bổ, bóp nghẹt luôn cả chính trị.
Thứ năm, phản biện. Tranh luận một cách dân chủ, công khai, bình đẳng và có văn hóa là con đường ngắn nhất, dù gập ghềnh, khó khăn, để dẫn tới chân lý. Đó là sinh khí của nền chính trị dân chủ cho nhân dân mà chúng ta kiến tạo, bắt đầu từ mỗi thành viên của hệ thống chính trị, giữa các thành viên của toàn hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Đó cũng chính là một trong những con đường phát triển dân chủ.
Những quyết sách chính trị đúng đắn một phần chỉ được xây dựng theo tinh thần đó, thông qua đối thoại, tranh luận, phản biện một cách cầu thị, khoa học và đầy trách nhiệm với vận mệnh của quốc gia và với vận mệnh của mỗi người.
Không độc quyền chân lý, không áp đặt tư tưởng, không chụp mũ chính trị, đó cũng chính là “hàn thử biểu” của tinh thần dân chủ và pháp quyền, thấm đẫm nhân văn, bằng động lực phản biện một cách thành tâm, trong sáng, vì sự phát triển của dân tộc.
Lòng tin của nhân dân là quốc bảo
Thứ sáu, trách nhiệm. Bình đẳng, dân chủ, minh bạch, phản biện… theo pháp luật tự chúng đã dẫn tới sự bảo đảm trách nhiệm và chịu trách nhiệm về pháp lý và đạo lý. Không giữ vững và bảo đảm trách nhiệm với quốc gia dân tộc, với chính mình thì mọi việc sẽ trở nên trống rỗng, thậm chí hỗn loạn, nguy hiểm đối với toàn cục hệ thống. Đây là “khoảng trống” thường bị coi nhẹ hoặc thực thi chưa thỏa đáng đây đó, trước nay, trên bình diện tổ chức thực tiễn kiến tạo và vận hành của hệ thống chính trị.
Buông lỏng trách nhiệm, tắc trách… nhất định làm hại tất cả mọi nỗ lực về hành xử đức trị hay pháp quyền, hạ thấp vị thế từng thành viên, nhiệm vụ và thẩm quyền mỗi người trong từng bộ máy… có nguy cơ khiến cho hệ thống bạc nhược hoặc bất cập.
Trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân và cụ thể là trách nhiệm trước chính mình, trên nền tảng dân chủ, bảo đảm bằng pháp quyền, đó phải là bổn phận của các thành viên của hệ thống chính trị Việt Nam, dù là Đảng, Nhà nước hay bất cứ một thành viên nào khác. Hành xử trái thế là vô hình rơi vào vô đạo, vô pháp. Chúng ta thừa hiểu rằng, lý do trước hết là lòng tin của công chúng và sự ổn định của hệ thống chính trị hiện nay đều đặt trên khả năng quản lý và lãnh đạo xã hội chứ không phải vào quá khứ.
Thứ bảy, lòng tin của nhân dân. Không có lòng tin của nhân dân sẽ không có gì cả, mất lòng tin của nhân dân là mất hết. Đó là chân lý ngàn đời. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng chính là vốn quý nhất trong các tài sản của Đảng, để Đảng dẫn dắt đất nước, làm nên công trạng cho dân tộc. Vì, Đảng lãnh đạo để nhân dân là chủ quốc gia, làm chủ đất nước. Nhờ nó, Đảng trở nên mạnh mẽ và bước qua mọi khó khăn, nhất là ở những bước ngoặt còn mất của lịch sử cách mạng hơn 88 năm qua.
Đối với Nhà nước, lòng tin của nhân dân là quốc bảo. Nhờ nó, Nhà nước đứng vững trước những sinh - tử khi mới ra đời và suốt hơn 73 năm qua. Đây là động lực căn bản vô hình nhưng hữu hình, hàm chứa sức mạnh của thể chế chính trị nước ta, nhất là hơn 30 năm đổi mới qua. Đó là thước đo và công cụ kiểm soát về sự mạnh yếu, thăng trầm, thậm chí sinh tử của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đó là hệ động lực đi tới tương lai của sự phát triển của hệ thống chính trị Việt Nam đổi mới!
Kỳ cuối: Cảnh báo về nạn tham nhũng quyền lực, 'sứ quân' cát cứ