Đột phá theo Nghị quyết 57 - NQ/TW: Tạo đòn bẩy cho Việt Nam phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) vừa công bố Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2025, theo đó, Việt Nam tiếp tục duy trì thứ hạng 44/139 quốc gia, nền kinh tế, tiếp tục duy trì vị trí của năm 2024.

Kết quả này khẳng định đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ trong phát triển đất nước dựa vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời cho thấy vị thế ngày càng vững chắc của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt.

Ngay sau đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đã kịp thời ban hành Khung chỉ số quốc gia theo dõi, đánh giá tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thể hiện sự chủ động trong cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, tạo đòn bẩy hiện thực hóa mục tiêu chiến lược của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Khẳng định vị thế trên bản đồ đổi mới sáng tạo toàn cầu

Sở Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trình độ quốc tế”. Ảnh: TTXVN

Sở Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trình độ quốc tế”. Ảnh: TTXVN

Theo Báo cáo GII 2025 vừa được công bố ngày 16/9, Việt Nam tiếp tục duy trì thứ hạng 44/139 quốc gia, nền kinh tế, thuộc nhóm 50 quốc gia có hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hàng đầu thế giới. Đây là thành quả quan trọng, phản ánh hiệu quả của các chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong những năm qua.

Đặc biệt, Việt Nam được WIPO ghi nhận là một trong 9 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhanh nhất kể từ năm 2013, cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Iran, Morocco, Albania và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong 15 năm liên tiếp, Việt Nam đạt kết quả đổi mới sáng tạo cao hơn so với mức phát triển, là một trong hai quốc gia giữ kỷ lục cùng với Ấn Độ. Việt Nam cũng nằm trong nhóm ba quốc gia có tốc độ tăng trưởng năng suất lao động nhanh nhất giai đoạn 2014–2024, cùng Trung Quốc và Ethiopia.

Trong cấu phần chỉ số, Việt Nam đã cải thiện đầu vào đổi mới sáng tạo, tăng 3 bậc từ vị trí 53 (năm 2023) lên thứ hạng 50 (năm 2025). Đây là kết quả của việc chú trọng hoàn thiện thể chế, tăng cường nguồn nhân lực, đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), phát triển hạ tầng số và hỗ trợ doanh nghiệp. Trong khi đó, đầu ra đổi mới sáng tạo, phản ánh sản phẩm tri thức, công nghệ và sáng tạo vẫn duy trì vị trí cao (hạng 37), dù giảm nhẹ 1 bậc so với năm 2024.

Việt Nam cũng giữ vững vị trí thứ 2 trong nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp, chỉ sau Ấn Độ (hạng 38). Trong ASEAN, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan, đứng thứ 3 sau Singapore và Malaysia. Đây là bước tiến quan trọng trong khu vực, khi phần lớn các quốc gia xếp trên Việt Nam đều thuộc nhóm thu nhập cao, có tỷ lệ chi cho R&D so với GDP vượt trội.

Chủ động cụ thể hóa Nghị quyết 57

Trung tâm đổi mới sáng tạo Công nghiệp 4.0 (IIC) thuộc Trường Quốc tế Miền Đông (Eastern International University) - nơi đào tạo nhân lực chất lượng cao. Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN

Trung tâm đổi mới sáng tạo Công nghiệp 4.0 (IIC) thuộc Trường Quốc tế Miền Đông (Eastern International University) - nơi đào tạo nhân lực chất lượng cao. Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN

Ngay sau khi Báo cáo GII 2025 được công bố, ngày 19/9, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định 2796/QĐ-BKHCN về “Khung chỉ số phục vụ theo dõi, đánh giá tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia”. Đây là bước đi thiết thực nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Khung chỉ số được xây dựng trên cơ sở lựa chọn các chỉ số trong Bộ Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) do WIPO công bố hằng năm và các lĩnh vực khoa học công nghệ do Tổ chức SCImago (một tổ chức nghiên cứu làm nhiệm vụ cung cấp thông tin về chất lượng nghiên cứu khoa học của các quốc gia, các cơ sở nghiên cứu, mức độ uy tín của các tạp chí thông qua việc phân tích các chỉ số dựa trên cơ sở dữ liệu Scopus-PV) công bố hằng năm, trong đó có sự tham gia của Việt Nam và các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập trung bình cao. Các chỉ số được lựa chọn bảo đảm sự tương đồng, có khái niệm nội hàm rõ ràng, có phương pháp tính, nguồn dữ liệu chính thống, được tổ chức quốc tế uy tín công bố.

Khung chỉ số nhằm hình thành bộ công cụ phục vụ theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu đến năm 2030: Tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao, theo định hướng của Nghị quyết số 57-NQ/TW.

Khung chỉ số được cấu trúc thành hai phần: Khung đánh giá tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và Khung đánh giá trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong đó, Khung đánh giá tiềm lực lựa chọn 35/78 chỉ số của GII, gồm 19 chỉ số đầu vào và 16 chỉ số đầu ra. Ý nghĩa, phương pháp tính, nguồn dữ liệu và kết quả của các chỉ số này được lấy từ báo cáo GII do WIPO công bố hằng năm, qua đó phục vụ phân tích, đánh giá tiềm lực của Việt Nam so với các nước thu nhập trung bình cao.

Cùng với đó là các chỉ số phản ánh từ nguồn nhân lực khoa học công nghệ, đầu tư cho R&D, năng lực đại học, đến các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo và đầu tư mạo hiểm. Ví dụ: sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học và kỹ thuật; số nhà nghiên cứu; tổng chi cho R&D (% GDP); chi R&D trung bình của 3 công ty hàng đầu có đầu tư ra nước ngoài; điểm trung bình của 3 trường đại học hàng đầu trong xếp hạng QS; tài chính cho khởi nghiệp sáng tạo; số thương vụ đầu tư mạo hiểm; số doanh nghiệp được nhận vốn đầu tư mạo hiểm; tỷ lệ chi R&D của doanh nghiệp (% GDP)…

Khung đánh giá trình độ lựa chọn 16/27 lĩnh vực cụ thể do SCImago xếp hạng hằng năm. Cụ thể, các lĩnh vực Việt Nam lựa chọn để đánh giá trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gồm: Khoa học tự nhiên với 5 lĩnh vực: Toán học; Vật lý và thiên văn học; Hóa học; Khoa học môi trường; Khoa học trái đất và hành tinh. Khoa học kỹ thuật và công nghệ với 4 lĩnh vực: Khoa học máy tính; Năng lượng; Kỹ thuật; Khoa học vật liệu. Khoa học y dược với 3 lĩnh vực: Y học; Khoa học thần kinh; Dược lý học, độc chất học và dược học. Khoa học nông nghiệp với lĩnh vực: Khoa học nông nghiệp và sinh học. Khoa học xã hội có 2 lĩnh vực: Khoa học xã hội; Tâm lý học. Khoa học nhân văn gồm 1 lĩnh vực: Nghệ thuật và nhân văn.

Việc đánh giá trình độ khoa học và công nghệ theo SCImago dựa trên 3 trụ cột. Về hiệu suất nghiên cứu (chiếm 50%) đánh giá theo chất lượng và hiệu quả công bố khoa học, số trích dẫn, H-index, tỷ lệ hợp tác quốc tế, chất lượng tạp chí… Đổi mới sáng tạo (chiếm 30%) là khả năng chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành bằng sáng chế, công nghệ, sản phẩm ứng dụng. Tác động xã hội (chiếm 20%) là mức độ phổ biến tri thức khoa học tới cộng đồng, hiện diện trực tuyến, sử dụng thông tin khoa học và công nghệ, vai trò của nữ giới trong nghiên cứu.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Bộ Khoa học và Công nghệ, việc ban hành Khung chỉ số là một trong những nhiệm vụ trong Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 1/4/2025 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị. Đây là cơ sở quan trọng để các bộ, ngành triển khai đồng bộ, nhằm phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số trong những năm tới. Đặc biệt, việc gắn mục tiêu so sánh với nhóm nước thu nhập trung bình cao sẽ giúp Việt Nam có định hướng rõ ràng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh.

Những tiến bộ trong GII 2025 cùng việc ban hành Khung chỉ số quốc gia cho thấy sự nhất quán trong chủ trương của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ và sự đồng hành của cộng đồng khoa học, doanh nghiệp. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đang thực sự trở thành động lực then chốt của phát triển nhanh và bền vững.

Việc duy trì thứ hạng trong GII sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu cao hơn là biến các kết quả nghiên cứu thành sản phẩm thương mại hóa, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, việc duy trì và nâng hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, đồng thời triển khai hiệu quả Khung chỉ số phục vụ theo dõi, đánh giá tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia sẽ là động lực quyết định để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Thu Phương (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/khoa-hoc-cong-nghe/dot-pha-theo-nghi-quyet-57-nqtw-tao-don-bay-cho-viet-nam-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-20250920180104861.htm