Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam: Hình thức đầu tư nào cũng phải đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc
Dự án xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) trên trục Bắc - Nam (gọi tắt là Dự án) đến nay vẫn luôn nhận được sự quan tâm của người dân. Dự án càng được chú ý hơn khi lần đầu tiên được triển khai tại nước ta và đang có sức hút đặc biệt với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Làm thế nào để Dự án vừa phát huy hiệu quả lại đảm bảo được nền tảng, cơ hội cho thương hiệu Việt phát triển? Để có những thông tin hữu ích, góc nhìn đa chiều gửi tới bạn đọc, PV Báo CAND đã có cuộc trao đổi cùng ông Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, thành viên Tổ chuyên gia tư vấn, giúp việc Ban Chỉ đạo của Chính phủ về Dự án.

Ông Nguyễn Văn Phúc.
PV: Dự án xây dựng tuyến ĐSTĐC có quy mô rất lớn, ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Với mục tiêu của Dự án được nêu trong Nghị quyết của Quốc hội, phải chăng hình thức đầu tư công do Nhà nước làm chủ đầu tư bằng 100% vốn nhà nước được xác định vào cuối năm 2024 có thể được coi là tối ưu, thưa ông?
Ông Nguyễn Văn Phúc: Thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, căn cứ Luật Đường sắt, Luật Đầu tư công và kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2030, ngày 30/11/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam.
Mục tiêu thể hiện ý nghĩa, tầm quan trọng của Dự án được xác định rõ trong Nghị quyết của Quốc hội. Đó là xây dựng một tuyến đường sắt hiện đại, đồng bộ. Dự án nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách và hàng hóa, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, phát huy lợi thế hành lang kinh tế Bắc - Nam, kết nối các hành lang Đông - Tây và các nước trong khu vực. Đây cũng là tuyến đường sắt vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.
Dự án này có phạm vi và quy mô lớn nhất từ trước đến nay của nước ta với tổng chiều dài toàn tuyến khoảng 1.541km, đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa, được đầu tư mới toàn tuyến đường đôi khổ 1.435mm, với tốc độ thiết kế 350 km/h, áp dụng công nghệ đường sắt chạy trên ray, điện khí hóa, bảo đảm hiện đại, đồng bộ, an toàn và hiệu quả. Sơ bộ mức đầu tư của Dự án là 1.713.548 tỷ đồng ( khoảng 67,34 tỷ USD ).
Dự án được đầu tư bằng hình thức đầu tư công, tức là bằng nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác như trái phiếu cổ phần, vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài..., do Nhà nước làm chủ đầu tư. Dự án có tiến độ thực hiện trong vòng 10 năm, kể từ năm 2025, phấn đấu hoàn thành cơ bản năm 2035. Ngoài ra, quy mô sử dụng đất cho Dự án, giải phóng mặt bằng và di dân, tái định cư cũng rất lớn.
Qua nhiều năm nghiên cứu, tính toán, với điều kiện của nước ta và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, căn cứ mục tiêu, tính chất, tầm quan trọng và quy mô của Dự án thì việc chọn hình thức đầu tư công do Nhà nước làm chủ đầu tư là hoàn toàn phù hợp.
PV: Có ý kiến cho rằng, với phạm vi, quy mô và tính chất phức tạp của 1 siêu dự án chưa có tiền lệ ở nước ta như vậy thì có bảo đảm tiến độ 10 năm hay không, có kéo dài thời gian dẫn đến đội vốn như một số dự án đường sắt đô thị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh hay không? Ông nghĩ sao về những băn khoăn này của người dân? Làm sao để thu hút sự tham gia của doanh nghiệp trong nước, để doanh nghiệp trong nước được chuyển giao, từng bước làm chủ công nghệ, phát triển công nghiệp đường sắt, thưa ông?
Ông Nguyễn Văn Phúc: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết tâm khởi công xây dựng trước 31/12/2026 (sớm hơn dự kiến ban đầu 1 năm) để cơ bản hoàn thành Dự án, đưa vào khai thác, vận hành từ năm 2035 theo Nghị quyết của Quốc hội. Để bảo đảm Dự án hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng và hiệu quả, Nghị quyết của Quốc hội quy định Dự án được áp dụng 19 nhóm cơ chế, chính sách đặc thù đặc biệt. Theo Chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XV đang diễn ra, Quốc hội sẽ ban hành Luật Đường sắt mới, tạo cơ sở pháp lý vững chắc và thông thoáng để thúc đẩy triển khai nhanh Dự án này và các dự án đường sắt khác của đất nước.
Như đã nêu trên, theo Nghị quyết của Quốc hội, đây là dự án đầu tư công bằng 100% vốn Nhà nước, do Nhà nước làm chủ đầu tư, do đó không có sự tham gia của các nhà đầu tư khác, kể cả nhà đầu tư nước ngoài theo phương thức đối tác công tư (PPP) hoặc hình thức đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên, chủ đầu tư dự án có thể chọn nhà thầu trong nước và nhà thầu nước ngoài phù hợp để thiết kế, thi công, giám sát thi công, cung cấp phương tiện, thiết bị cho Dự án. Nhà thầu phải ưu tiên sử dụng các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp trong nước có thể sản xuất, cung cấp.
Đối với những hạng mục, công việc, phương tiện, thiết bị mà nhà thầu trong nước chưa đáp ứng yêu cầu thì cần phải thuê, đặt hàng nhà thầu nước ngoài, nhất là từ các nước có công nghệ nguồn, công nghệ lõi, công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Đồng thời, đối với nhà thầu nước ngoài, cần đáp ứng điều kiện cam kết chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cho đối tác Việt Nam để làm chủ công tác quản lý, vận hành, khai thác, bảo trì; từng bước làm chủ công nghệ. Qua đó góp phần phát triển doanh nghiệp trong nước, công nghiệp đường sắt và các công nghiệp có liên quan của Việt Nam.
Bên cạnh vai trò, trách nhiệm của chủ đầu tư, việc chọn đúng nhà thầu là rất quan trọng để bảo đảm tiến độ thực hiện và hoàn thành Dự án. Có lẽ, Dự án cần có một tổng công trình sư và một tổng thầu cho toàn bộ Dự án.

Mô hình đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.
PV: Mới đây một số tập đoàn kinh tế tư nhân đề xuất với Chính phủ cho phép họ làm nhà đầu tư Dự án thay vì Nhà nước làm chủ đầu tư. Ông có ý kiến gì về những đề xuất này?
Ông Nguyễn Văn Phúc: Vừa qua, vận dụng Nghị quyết của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân, một số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân như VinSpeed thuộc Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn Thaco đề xuất với Chính phủ giao hai doanh nghiệp này thay chủ đầu tư Nhà nước làm nhà đầu tư Dự án bằng 100% vốn của doanh nghiệp, ngoài phần vốn đền bù giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư do Nhà nước thực hiện. Thời gian thực hiện ngắn hơn, từ 5 - 7 năm thay vì 10 năm.
Tập đoàn Hòa Phát cũng đã sẵn sàng chuẩn bị sản xuất đủ đường ray đúng tiêu chuẩn cho Dự án. Tới đây, có thể có các tập đoàn kinh tế tư nhân khác tiếp tục đề xuất tham gia Dự án này. Bởi, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhận thấy Dự án là cơ hội to lớn, có tính lịch sử để đầu tư kinh doanh và cống hiến đối với đất nước.
Đây là một tín hiệu tích cực, chứng tỏ Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quốc hội đã nhanh chóng truyền cảm hứng, kêu gọi và tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chia sẻ gánh nặng, áp lực về ngân sách, về nợ công với Nhà nước, về rủi ro trong đầu tư cơ sở hạ tầng, tham gia đầu tư các dự án trọng điểm quốc gia trong đó có Dự án này.
Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo các bộ, ngành nghiên cứu và có ý kiến về đề xuất của VinSpeed và Thaco để Chính phủ xem xét, trình cấp có thẩm quyền. Có thể có những vấn đề như sau được nêu ra: Nên chọn 1 hay chọn cả 2 doanh nghiệp này? Nhà nước có nên giao toàn bộ tuyến đường sắt xương sống của quốc gia, có tính lưỡng dụng là vận tải công cộng và phục vụ quốc phòng, an ninh cho doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không, hay chỉ nên giao một phần và Nhà nước vẫn phải giữ vai trò chủ đạo? Mặt thuận và không thuận? Đã có tiền lệ tương tự được kiểm chứng trên thế giới chưa? Do đây là dự án đầu tư công do Nhà nước làm chủ đầu tư 100% vốn Nhà nước đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư công, nên nếu thay chủ đầu tư Nhà nước bằng nhà đầu tư 100% vốn tư nhân thì phải trình Quốc hội ban hành Nghị quyết khác, cho đầu tư theo Luật Đầu tư.
Hoặc, bởi tính chất và tầm quan trọng của Dự án như nói trên, nếu được, có lẽ như ý kiến của một số chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, phương án tốt nhất là đề nghị Quốc hội cho đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP). Theo đó, (1) Nhà nước sẽ đầu tư giải phóng mặt bằng, đền bù, di dân, tái định cư và các hạng mục thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an quản lý (nếu có), đầu tư và giao doanh nghiệp Nhà nước (Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam) quản lý, vận hành, khai thác hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt; (2) Nhà đầu tư tư nhân (hoặc liên danh của một số nhà đầu tư tư nhân ) - 1 bên của hợp đồng PPP, sẽ đầu tư và kinh doanh, bảo trì hạ tầng đường sắt, bao gồm các nhà ga; (3) Nhà đầu tư tư nhân (hoặc liên danh các nhà đầu tư tư nhân ) - 1 bên của hợp đồng PPP cùng với Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam và các doanh nghiệp vận tải đường sắt khác trong nước kinh doanh vận tải đường sắt.
Hình thức đầu tư nào cũng phải thực hiện đúng mục tiêu mà Đảng và Nhà được đã đặt ra, đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc.
PV: Mới đây nhất, tại cuộc họp triển khai Nghị Quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Chính phủ cho rằng, các cơ quan Nhà nước phải phân biệt rõ ràng về điều kiện, tiêu chuẩn của nhà đầu tư với điều kiện, tiêu chuẩn của nhà thầu. Theo ông, chúng ta nên tách bạch hai vấn đề này như thế nào? Và câu hỏi tiếp theo là ở nước ta, doanh nghiệp nào có đầy đủ tiêu chuẩn, điều kiện?
Ông Nguyễn Văn Phúc: Nếu xét về kinh nghiệm làm đường sắt thông thường thì Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam vẫn là chủ lực, còn nếu xét về kinh nghiệm làm ĐSTĐC thì có thể nói hiện nay chưa có doanh nghiệp Việt Nam nào đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Tuy nhiên, nếu xét về trình độ, năng lực và kinh nghiệm huy động vốn, làm nhà đầu tư, quản trị các dự án hạ tầng tầm cỡ quốc tế hoặc làm nhà thầu thi công các dự án, nhà thầu cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đòi hỏi phải sử dụng công nghệ, kỹ thuật theo chuẩn mực quốc tế thì nước ta đã có các tập đoàn kinh tế có uy tín như Viettel, FPT, Vingroup, Sungroup, Hòa Phát, Thaco, Đèo Cả, Sơn Hải… Các tập đoàn này đều có thể trở thành nhà đầu tư hoặc nhà thầu độc lập, hoặc đối tác liên danh, đối tác công tư thực hiện một phần, một số hạng mục của Dự án.
Đối với một dự án có thể có nhiều chủ thể, đối tác tham gia, đó là chủ đầu tư, nhà đầu tư, các nhà thầu thiết kế, thi công, giám sát thi công, cung cấp thiết bị, phương tiện, các doanh nghiệp quản lý, vận hành, khai thác...
Mỗi chủ thể, đối tác có vai trò, nhiệm vụ riêng của mình trong dự án, do đó, cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có tiêu chuẩn, điều kiện về trình độ, năng lực, kinh nghiệm riêng đối với vai trò, nhiệm vụ của mình.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo rất đúng. Đó là cần phải phân biệt rõ ràng tiêu chuẩn, điều kiện của nhà đầu tư với tiêu chuẩn, điều kiện của nhà thầu. Ngoại trừ trường hợp nhà đầu tư đồng thời là nhà thầu tự thực hiện dự án của mình, thì đa số, nếu như không muốn nói là hầu hết các nhà đầu tư và nhà thầu là khác nhau.
Thông thường các nhà đầu tư tuy có nhiều vốn, muốn đầu tư kinh doanh nhưng cái họ thiếu (không nhất thiết phải có) nên cần phải thuê các nhà thầu, đó là trình độ, năng lực và kinh nghiệm về thiết kế, thi công, giám sát thi công, cung cấp phương tiện, thiết bị, quản lý, vận hành, khai thác dự án...
Ngược lại, các nhà thầu có thể không có nhiều vốn hoặc chỉ đủ vốn tối thiểu nhưng với trình độ, năng lực và kinh nghiệm của mình có thể kinh doanh bằng cách cung cấp các dịch vụ đó cho nhà đầu tư. Không thể đòi hỏi nhà đầu tư phải có đầy đủ tiêu chuẩn, điều kiện như nhà thầu và ngược lại.
Sự khác biệt giữa tiêu chuẩn, điều kiện của nhà đầu tư và tiêu chuẩn, điều kiện của nhà thầu được quy định trong pháp luật có liên quan và trong hồ sơ, hợp đồng về đấu thầu.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!