Dự án Luật Phá sản sửa đổi: Ưu tiên tái sinh doanh nghiệp, khởi sáng kinh tế tư nhân
Thảo luận tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách sáng nay (30/9) về dự án Luật Phá sản (sửa đổi), các đại biểu đã tập trung làm rõ những bất cập kéo dài của Luật Phá sản 2014 sau hơn 11 năm áp dụng, đồng thời nhấn mạnh nhu cầu sửa đổi toàn diện để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh hơn.

Toàn cảnh Hội nghị
Với tinh thần Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, dự thảo luật được đánh giá là đột phá khi bổ sung thủ tục phục hồi độc lập, rút gọn tố tụng và áp dụng nền tảng điện tử, nhằm ưu tiên cứu vãn doanh nghiệp thay vì chỉ tuyên bố phá sản. Các ý kiến từ đại biểu không chỉ chỉ ra những nút thắt thực tiễn mà còn đề xuất các giải pháp cụ thể, góp phần định hình một khung pháp lý nhân văn, hiệu quả, giúp doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng và tái sinh mạnh mẽ hơn.
Những bất cập thực tiễn và nhu cầu đổi mới cấp thiết
Từ thực tiễn hơn một thập kỷ triển khai Luật Phá sản 2014, các đại biểu nhận định rằng luật đã phát huy tác động tích cực đến môi trường kinh doanh, nhưng đồng thời bộc lộ nhiều bất cập nội tại và từ quá trình tổ chức thực hiện, đòi hỏi sửa đổi khẩn cấp để phù hợp với bối cảnh kinh tế số và hội nhập quốc tế.
Đại biểu Mai Thị Phương Hoa nhấn mạnh rằng, qua hơn 11 năm, luật đã góp phần tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, nhưng các vấn đề như thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh thiếu quy định rút gọn cho doanh nghiệp hợp tác xã có tính chất đặc thù, hay cơ chế tạm ứng chi phí phá sản chưa rõ ràng, đã khiến nhiều vụ việc đình trệ, không kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn. Bà phân tích rằng, việc sửa đổi không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật mà còn là yêu cầu chính trị - pháp lý - thực tiễn, đặc biệt khi Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị chỉ đạo rõ ràng phải rút ngắn thời gian xử lý thủ tục pháp lý, mở rộng phạm vi áp dụng chế tài phá sản rút gọn, đẩy mạnh tố tụng điện tử và cải cách cơ chế xử lý tài sản. Điều này phản ánh sự cấp thiết của việc xây dựng một luật phá sản không chỉ xử lý phá sản mà còn ưu tiên phục hồi, giúp doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào mất khả năng thanh toán được tái sinh, từ đó thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững.
Đại biểu Thạch Phước Bình bổ sung rằng, dự thảo luật lần này đã có những bước tiến tiến bộ như bổ sung thủ tục phục hồi, thủ tục rút gọn và giải quyết vụ việc trên môi trường điện tử, nhưng vẫn tồn tại những khoảng trống pháp lý cần lấp đầy để tránh thiếu đồng bộ với các luật khác. Ông chỉ ra rằng, việc loại trừ tổ chức tín dụng và doanh nghiệp bảo hiểm khỏi phạm vi phục hồi theo Điều 2 có thể dẫn đến khoảng trống khi xử lý trường hợp đặc thù, đòi hỏi bổ sung nguyên tắc phối hợp giữa các đạo luật để đảm bảo tính thống nhất hệ thống pháp luật. Hơn nữa, chính sách hỗ trợ nhà nước tại Điều 4 dù định hướng rõ về thuế, tín dụng, tài chính, đất đai cho doanh nghiệp gặp khó khăn, nhưng vẫn mang tính khái quát, thiếu tiêu chí cụ thể như đối tượng hỗ trợ (doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã), thời hạn áp dụng hay cơ quan giám sát, dễ dẫn đến áp dụng tùy tiện hoặc bị lợi dụng. Những phân tích này không chỉ làm nổi bật tính cấp thiết của sửa đổi mà còn khẳng định rằng, trong bối cảnh kinh tế tư nhân đang bùng nổ, luật phá sản phải chuyển từ tư duy "chấm dứt" sang "tái cấu trúc", với trọng tâm là rút ngắn thời gian từ 6 tháng xác định nguy cơ mất khả năng thanh toán theo Điều 5 – một quy định ông đánh giá là quá cứng nhắc, cần bổ sung căn cứ linh hoạt như chỉ số tài chính hay báo cáo kiểm toán để sát thực tiễn hơn.
Sâu sắc hơn, các đại biểu nhấn mạnh rằng, thẩm quyền tòa án tại Điều 6 và 7 dù đã trao thêm quyền cho tòa án nhân dân khu vực, nhưng thiếu cơ chế phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự, thuế và bảo hiểm xã hội, dẫn đến chồng chéo và kéo dài vụ việc trong thực tiễn. Đại biểu Thạch Phước Bình lập luận rằng, đây chính là khâu dễ phát sinh vấn đề, đòi hỏi bổ sung khoản riêng quy định trách nhiệm phối hợp liên ngành, kèm theo nghị định hoặc thông tư liên tịch của Chính phủ để hướng dẫn thống nhất.
Tương tự, định chế quản tài viên và doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản tại Điều 9, 10, 11 và 21 dù mở rộng nhiệm vụ quyền hạn, nhưng cơ chế độc lập tài chính chưa được bảo đảm, dễ hình thành lợi ích nhóm; ông đề xuất chỉ định luân phiên hoặc ngẫu nhiên từ danh sách quốc gia, đồng thời bổ sung quỹ tạm ứng chi phí từ ngân sách nhà nước để bảo đảm thù lao, đặc biệt khi doanh nghiệp hết tài sản, và làm rõ quy trình thay thế quản tài viên từ chối nhiệm vụ để tránh gián đoạn. Những bất cập này, theo các đại biểu, không chỉ làm chậm trễ công lý kinh tế mà còn cản trở sứ mệnh của luật phá sản trong việc bảo vệ lao động, chủ nợ và thúc đẩy tái đầu tư, đòi hỏi đổi mới thể chế mạnh mẽ để luật thực sự trở thành công cụ hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng.
Hoàn thiện để xây dựng khung pháp lý nhân văn, hiệu quả
Từ những phân tích cấp thiết trên, các đại biểu đã đưa ra hàng loạt quan điểm sâu sắc và đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện dự thảo, tập trung vào việc cân bằng giữa phục hồi và phá sản, đảm bảo tính khả thi và hội nhập quốc tế. Đại biểu Mai Thị Phương Hoa tập trung vào tên gọi luật, lập luận rằng dù tờ trình đề xuất đổi thành "Luật Phục hồi, phá sản" để phù hợp với bổ sung chế định phục hồi độc lập, ưu tiên phục hồi từ nguy cơ mất khả năng thanh toán và tránh tâm lý e ngại phá sản, đồng thời phù hợp xu thế thế giới (như Hàn Quốc và Ả Rập Ai Cập), nhưng bà vẫn băn khoăn và đề nghị giữ nguyên "Luật Phá sản". Bà lý giải rằng Luật 2014 đã có thủ tục phục hồi sau mở phá sản, kiểm kê tài sản và hội nghị chủ nợ, và việc đưa phục hồi lên trước không đủ cơ sở thay đổi tên, vì doanh nghiệp nào cũng phải xây phương án phục hồi trước nộp đơn; hơn nữa, đa số quốc gia vẫn giữ tên "Luật Phá sản", và đổi tên sẽ gây lãng phí khi phải sửa loạt văn bản liên quan, đồng thời học hỏi từ sắp xếp bộ máy nhà nước gần đây – ưu tiên tên ngắn gọn, nêu nội hàm chính. Quan điểm này không chỉ nhấn mạnh tính ổn định pháp lý mà còn thể hiện lập luận chặt chẽ về tránh lãng phí nguồn lực nhà nước trong lập pháp.
Về chi phí phục hồi phá sản và tạm ứng tại Điều 20, đại biểu Phương Hoa phân tích hai quan điểm trong tờ trình: một là ngân sách nhà nước bảo đảm tạm ứng và chi trả khi doanh nghiệp hết tài sản hoặc không bán được để bảo đảm chi phí; hai là từ quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bà đồng tình quan điểm đầu, phù hợp với Ủy ban Kinh tế - Tài chính, Pháp luật và Tư pháp cũng như cơ quan soạn thảo, vì chủ yếu liên quan lao động, công đoàn và doanh nghiệp hết tài sản, nhưng đề nghị cân nhắc thêm vì dự kiến số vụ phá sản tăng sau ban hành luật thông thoáng, dẫn đến chi ngân sách tăng; cần phân tích vụ việc phức tạp (lập danh sách chủ nợ trong-ngoài nước, kiểm kê tài sản quốc tế, thẩm định) với chi phí lớn, và từ 2014 đến nay có 1.500 đơn yêu cầu nhưng bao nhiêu đình trệ do chi phí – yêu cầu cung cấp số liệu bình quân chi phí, phân tích khoản chi chủ yếu và dự toán ngân sách. Bà còn đề nghị làm rõ khái niệm "doanh nghiệp không còn tài sản" để tránh tranh cãi, như quyền đòi nợ chưa khởi kiện hay tài sản tranh chấp có tính là tài sản không, và hạn chế chi trả chỉ trường hợp nhất định để tránh lạm dụng. Những đề xuất này thể hiện tầm nhìn chiến lược, đảm bảo ngân sách nhà nước hỗ trợ hiệu quả mà không bị xói mòn.
Đại biểu Thạch Phước Bình bổ sung quan điểm về hội nghị chủ nợ tại Điều 33, 34, cho rằng, tỷ lệ 65% tổng nợ đồng ý để nghị quyết hiệu lực quá cao, dễ thất bại nếu chủ nợ vắng mặt. Ông đề xuất cho phép biểu quyết văn bản hoặc trực tuyến, công nhận ý kiến gửi trước, và giảm tỷ lệ xuống 50-60% hoặc ngưỡng khác nhau (60% cho phương án phục hồi, 50% cho rút gọn) để phù hợp thực tiễn.
Về thủ tục phục hồi tại Điều 25-30, dù tiến bộ với nộp phương án ngay cùng đơn, khoanh nợ thuế, tạm dừng bảo hiểm xã hội, nhưng vẫn thiên hình thức. Ông đề xuất bổ sung cơ chế phục hồi sớm thỏa thuận chủ nợ để tòa phê chuẩn nhanh, và ưu tiên tài trợ mới khuyến khích đầu tư. Với thủ tục phá sản Điều 38, 39, bổ sung trách nhiệm nộp đơn của cơ quan thuế, bảo hiểm xã hội là tiến bộ, nhưng thiếu chế tài chậm trễ; đề xuất quy định rõ trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu nếu không nộp đúng hạn gây thiệt hại cho chủ nợ hoặc lao động.
Về giải quyết điện tử Điều 23, quy định chung chung; đề xuất cổng thông tin quốc gia công khai vụ việc, danh sách chủ nợ, kết quả thanh lý, khẳng định giá trị chữ ký số và biểu quyết điện tử.
Ngoài ra, với yếu tố nước ngoài Điều 6,7,16,18, nội dung sơ lược; đề xuất tham chiếu luật mẫu UNCITRAL về phá sản xuyên biên giới, nội địa hóa với tiêu chí công nhận rõ, hợp tác tư pháp và bảo vệ chủ nợ nước ngoài. Những quan điểm này, qua lập luận logic, không chỉ hoàn thiện dự thảo mà còn nâng tầm luật phá sản thành công cụ thể chế đổi mới, thúc đẩy kinh tế tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Tiến:
Ưu tiên tái sinh và tái cơ cấu theo tinh thần Nghị quyết 68
Tại hội nghị, Phó Chánh án Nguyễn Văn Tiến đã tiếp thu ba ý kiến chính từ các đại biểu và giải trình chi tiết để hoàn thiện dự thảo.
Về tên gọi luật, ông nhấn mạnh việc đề xuất đổi thành "Luật Phục hồi, phá sản" nhằm giảm e ngại tâm lý phá sản trong doanh nghiệp và xã hội, ưu tiên tái sinh và tái cơ cấu theo tinh thần Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị, đồng thời phù hợp với kinh nghiệm quốc tế; cơ quan thẩm tra và Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí.
Về tạm ứng chi phí phá sản, ông thừa nhận đây là điểm nghẽn thực tiễn gây chậm vụ việc, đặc biệt với doanh nghiệp hết tài sản hoặc chưa bán được, nên sử dụng ngân sách nhà nước ứng trước và ưu tiên hoàn trả từ bán tài sản; ông cam kết cung cấp số liệu cụ thể từ 1.500 đơn yêu cầu từ năm 2014, phân tích chi phí phức tạp như lập danh sách chủ nợ quốc tế và kiểm kê tài sản để báo cáo giải trình.
Về phối hợp liên ngành và tố tụng, dự thảo đã bổ sung quy định tại các Điều 7, 12, 13, 15, 27, 40 và 65 theo chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, nghiên cứu thêm cơ quan phối hợp riêng hoặc nguyên tắc; cho phép hội nghị chủ nợ trực tuyến để tiết kiệm thời gian hiệu quả, và tiếp tục đánh giá tỷ lệ biểu quyết 65% hoặc hạ xuống 51-65%; về giải quyết điện tử, thiết kế toàn bộ quy trình từ nộp đơn đến kết thúc trên nền tảng theo Nghị quyết 68, nghiên cứu cổng thông tin quốc gia về phá sản.
Tổng thể, Tòa án tối cao sẽ phối hợp cơ quan thẩm tra và bộ ngành hoàn thiện dự thảo chất lượng cao trình Quốc hội kỳ họp thứ 10, tiếp thu tránh lợi dụng chính sách và xây dựng nguyên tắc hỗ trợ thuế tín dụng đất đai với tiêu chí rõ ràng.