Chuyên gia: Nếu được nâng hạng, 4-5 tỷ USD sẽ đổ vào cổ phiếu Việt Nam
Các quỹ chủ động tham chiếu chỉ số FTSE Secondary Emerging Index có quy mô lớn, tổng dòng vốn nước ngoài có khả năng thu hút được ước đạt 4 - 5 tỷ USD.

Ảnh minh họa.
Nhận định về xu hướng thị trường chứng khoán trong thời gian qua và triển vọng nâng hạng tới đây, bà Nguyễn Thị Hằng Nga, CFA, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Quản lý Quỹ Đầu tư chứng khoán Vietcombank (VCBF), nhấn mạnh thị trường vừa qua đã có đợt tăng trưởng nhanh và mạnh.
Tính đến ngày 22/9, VN-Index đã tăng gần 29% so với đầu năm, và nếu tính từ đáy 9/4/2025 thì đã tăng hơn 49%. Trong khi đó, thanh khoản bùng nổ, đặc biệt là trong tháng 7 với giao dịch bình quân đạt gần 35.000 tỷ đồng/phiên, tháng 8 gần 50.000 tỷ đồng/phiên và đặc biệt có những phiên hơn 70.000 tỷ đồng.
Động lực tăng trưởng của thị trường có thể đến từ nhiều yếu tố nổi bật là chính sách tiền tệ mở rộng, giúp lãi suất thấp, thanh khoản dồi dào, khuyến khích dòng tiền vào chứng khoán; kỳ vọng nâng hạng lên thị trường mới nổi thứ cấp bởi FTSE.
Một loạt các nghị quyết mới của Đảng, Quốc hội và Chính phủ như Nghị quyết 68 thúc đẩy kinh tế tư nhân, Nghị quyết triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa.
Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng diễn biến tích cực chỉ tập trung ở một số nhóm cổ phiếu và ngành như nhóm Vingroup, nhóm ngành ngân hàng hay chứng khoán. Trong khi đó, các quỹ mở cổ phiếu có danh mục đa dạng hơn đã không tăng trưởng mạnh được như VN-Index.
Theo bà Nga, việc FTSE Russell có thể nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ “cận biên” lên “mới nổi” là một bước ngoặt quan trọng. Đây không chỉ là thay đổi về tên gọi, mà còn khẳng định chất lượng, tính minh bạch và sức hấp dẫn của thị trường vốn Việt Nam.
Cụ thể, nếu được nâng hạng, Việt Nam dự kiến được phân bổ khoảng 0,3% trong chỉ số FTSE Secondary Emerging Index, đồng nghĩa với khả năng thu hút khoảng 1 tỷ USD từ các quỹ thụ động.
Xa hơn, các quỹ chủ động tham chiếu chỉ số này có quy mô gấp 3–4 lần, giúp tổng dòng vốn nước ngoài có khả năng thu hút được có thể đạt 4–5 tỷ USD.
Nâng hạng thị trường không chỉ giúp gia tăng thanh khoản và thu hút dòng vốn ngoại, mà còn nâng cao uy tín quốc gia, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn quốc tế dài hạn. Đồng thời, nâng hạng cũng tạo áp lực tích cực để thị trường tiếp tục cải thiện chất lượng và minh bạch hơn, hướng tới sự phát triển bền vững.

Bà Nguyễn Thị Hằng Nga, CFA, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Quản lý Quỹ Đầu tư chứng khoán Vietcombank (VCBF).
Ảnh hưởng của nâng hạng thị trường ở các nước thường có hai giai đoạn rõ rệt. Thứ nhất là khi có thông tin sắp được nâng hạng, thị trường thường bùng nổ mạnh mẽ nhờ dòng vốn đón đầu và tâm lý lạc quan.
Thứ hai là giai đoạn hậu nâng hạng, khi thị trường thực sự hưởng lợi dài hạn nếu đi kèm với cải cách thể chế, minh bạch và nâng cao chất lượng hàng hóa niêm yết.
Ví dụ tiêu biểu là Saudi Arabia. Sau khi được FTSE và MSCI nâng hạng năm 2019, giá trị sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài đã tăng gần 5 lần, từ khoảng 23 tỷ USD lên hơn 111 tỷ USD chỉ trong vài năm. Và trong giai đoạn 2019 - 2024, chỉ số MSCI Saudi Arabia tăng tới 57,1%, vượt xa mức 28,8% của chỉ số MSCI Emerging Markets chung. Điều này cho thấy nâng hạng giúp thu hút dòng vốn ngoại bền vững, đồng thời khẳng định vị thế thị trường trên bản đồ tài chính toàn cầu.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý trường hợp Pakistan. Sau khi MSCI nâng hạng từ thị trường cận biên lên mới nổi năm 2017, thị trường bùng nổ ngắn hạn, chỉ số MSCI Pakistan tăng mạnh 40,4% trong năm 2016 trước khi nâng hạng. Nhưng do các yếu tố vĩ mô và chính trị bất ổn, từ 2017 - 2021 chỉ số này giảm tới 66%, buộc MSCI phải hạ cấp Pakistan trở lại cận biên năm 2021.
Trường hợp này nhấn mạnh một thực tế là nâng hạng chỉ tạo hiệu ứng tích cực bền vững khi quốc gia đó duy trì cải cách, ổn định vĩ mô và củng cố niềm tin nhà đầu tư.
Hiện tại, P/E của VN-Index ở mức khoảng 14,8 lần, cao hơn một chút so với trung bình 10 năm là 14,5 lần, nhưng vẫn thấp hơn so với nhiều thị trường trong khu vực. Triển vọng trung và dài hạn vẫn rất tích cực nhờ những nền tảng vĩ mô và vi mô vững chắc.
Lãi suất vẫn được giữ ở mức thấp, Chính phủ đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, tiêu dùng nội địa phục hồi rõ rệt, du lịch quốc tế tăng trưởng mạnh mẽ, FDI vẫn tăng trưởng vững chắc. Đây là những yếu tố giúp duy trì thanh khoản và hỗ trợ tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp.
Thứ hai, lợi nhuận doanh nghiệp dự báo cải thiện rõ nét. Thứ ba, thị trường mở ra nhiều cơ hội đầu tư theo ngành, ví dụ như ngành ngân hàng, lợi nhuận 2025–2026 dự báo tăng trung bình 19,7%, định giá P/B dự phóng 2025 chỉ khoảng 1,4 lần, thấp hơn mức bình quân 5 năm qua (1,6 lần). Trong khi đó, hàng tiêu dùng , bán lẻ, bất động sản và xây dựng hay ngành công nghệ với xu hướng chuyển đổi số và ứng dụng AI đều là những triển vọng dài hạn.
"Thị trường chứng khoán Việt Nam có thể biến động ngắn hạn sau nhịp tăng mạnh, nhưng với nền tảng vĩ mô ổn định, lợi nhuận doanh nghiệp tăng trưởng hai con số và cơ hội rộng mở ở nhiều nhóm ngành, triển vọng trung và dài hạn vẫn rất tích cực. Tất nhiên là những rủi ro như lạm phát hay xuất khẩu chậm lại vẫn sẽ cần được theo dõi kỹ lưỡng", bà Nga khuyến nghị.