Dự báo tiềm năng đầu tư năng lượng tái tạo tại châu Á từ nay đến năm 2050

Theo báo cáo mới của Viện Phân tích Tài chính và Kinh tế Năng lượng (IEEFA), tiềm năng đầu tư vào các chuỗi cung ứng dự án điện mặt trời và điện gió ngoài khơi tại châu Á sẽ vượt 1,1 nghìn tỷ USD cho đến năm 2050, với khả năng tạo ra 873 gigawatt (GW) năng lượng sạch.

Hình minh họa

Hình minh họa

Grant Hauber, Cố vấn Tài chính Năng lượng Chiến lược của IEEFA tại châu Á cho biết: “Báo cáo này nêu bật cơ hội hiện tại nhằm tận dụng chuỗi cung ứng năng lượng tái tạo. Năng lượng mặt trời mang lại lợi ích đầu tư ngay lập tức cho Châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời lợi thế của việc tham gia chuỗi cung ứng gió ngoài khơi sẽ phát triển trong vài năm tới”.

Báo cáo tập trung vào 7 thị trường châu Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan, Việt Nam, Philippines và Indonesia. IEEFA ước tính đến năm 2050, các dự án điện mặt trời để đạt được công suất 634 GW, cần khoản đầu tư 394 tỷ USD, trong đó 346 tỷ USD có khả năng được chi cho chuỗi cung ứng địa phương. Điện gió ngoài khơi mang lại cơ hội trị giá 621 tỷ USD để cung cấp 239 GW công suất, trong đó 425 tỷ USD dự kiến sẽ được nội địa hóa.

Ngoài ra, còn có cơ hội trong lĩnh vực hàng hải trị giá từ 72 đến 97 tỷ USD để đóng các tàu dịch vụ và lắp đặt năng lượng gió ngoài khơi, với hầu hết khoản đầu tư này dự kiến sẽ đến từ khu vực.

Ông Hauber nói: “Báo cáo vạch ra từng yếu tố trong chuỗi cung ứng dự án, định lượng tiềm năng đầu tư vốn và nhằm mục đích khuyến khích các chính sách dài hạn và tham vọng hơn, giúp các nhà đầu tư và nhà hoạch định chính sách đánh giá quy mô của cơ hội”.

Nhìn xa hơn các tấm pin mặt trời và tuabin gió

Ngoài năng lượng chi phí thấp đầy hứa hẹn, còn có cơ hội nội địa hóa phần lớn chuỗi cung ứng năng lượng mặt trời và gió ngoài khơi cần thiết cho các dự án phát điện hoạt động hoàn chỉnh.

“Thông điệp quan trọng dành cho các nhà hoạch định chính sách và công nghiệp là bạn không cần chế tạo các mô-đun điện mặt trời (PV) hay tuabin gió để nhận ra những lợi ích lớn từ đầu tư và sản xuất trong nước”, ông Hauber cho biết.

Theo báo cáo, chi tiêu không bao gồm pin mặt trời và tuabin gió sẽ chiếm ít nhất 75% tổng vốn đầu tư cho đến năm 2050, mang lại cơ hội 770 tỷ USD cho các ngành công nghiệp trong nước trong 25 năm tới.

“Có những vật liệu, linh kiện, cơ sở hạ tầng, hậu cần và dịch vụ có thể mang lại giá trị đáng kể cho nền kinh tế trong nước trong thời gian dài và có khả năng tiếp thị trong khu vực và xa hơn nữa”, ông Hauber nói.

Trung Quốc hiện thống trị chuỗi cung ứng toàn cầu về sản xuất pin mặt trời, cung cấp gần 85% nhu cầu toàn cầu với chi phí khó có thể sánh kịp, ít nhất là trong thập kỷ này. Bên ngoài Trung Quốc, thay vì sản xuất các mô-đun PV, các quốc gia có thể hướng đầu tư trong nước vào các dự án để hoàn thiện các trang trại năng lượng mặt trời.

Ông Hauber nhấn mạnh khái niệm về sự cân bằng của hệ thống (BOS), bao gồm tất cả các chi phí và thành phần ngoài tấm pin mặt trời. IEEFA tính toán rằng các khoản đầu tư của BOS chiếm phần lớn chi phí trang trại PV, tùy thuộc vào thị trường, dao động từ 55% đến 75% tổng chi phí của dự án.

Ông Hauber tiếp tục: “Trong chuỗi cung ứng dự án điện mặt trời, gần như toàn bộ chi phí tài trợ và phát triển dự án đều phát sinh trong nước và có khả năng một nửa hoặc nhiều hơn chi phí BOS có thể được lấy từ nguồn trong nước”.

Trong khi đó, nguồn tài nguyên gió ngoài khơi ở châu Á rất dồi dào, chất lượng cao và có thể dự đoán được. Các nền kinh tế hàng hải truyền thống của khu vực sở hữu những lợi thế vốn có trong lĩnh vực đóng tàu, chế tạo thép, bảo trì hàng hải và các dịch vụ ngoài khơi, khiến chúng rất phù hợp cho các dự án gió ngoài khơi quy mô lớn.

Hauber bổ sung: “Công suất năng lượng gió hiện có ở hầu hết các quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương lớn hơn tổng công suất lắp đặt hiện tại của họ từ tất cả các nguồn phát điện. Các trang trại gió đủ sức cạnh tranh để giảm giá khí đốt và than nhập khẩu, ngay cả ở những thị trường nơi những mức giá đó được trợ giá và không có định giá carbon”.

Việc đóng tàu sử dụng năng lượng gió ngoài khơi mang đến một cơ hội trị giá lên tới 97 tỷ USD, với phần lớn khoản đầu tư đó cần được thực hiện trong thời gian tới. Ông Hauber lưu ý việc bổ sung đội tàu dịch vụ gió toàn cầu chưa theo kịp quy mô ngày càng tăng của các tuabin và quy mô mở rộng của các trang trại gió.

Xu hướng toàn cầu đối với các trang trại gió ngoài khơi tạo ra cơ hội đáng kể cho các xưởng đóng tàu trên khắp Châu Á-Thái Bình Dương nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng này. Hiện tại, chỉ có một số ít xưởng đóng tàu chuyên đóng các loại tàu này, chủ yếu là Na Uy và Trung Quốc. Có nhu cầu đặc biệt về các tàu lắp đặt tuabin gió chuyên dụng, vì chỉ một số ít có thể lắp đặt các tuabin lớn nhất, thế hệ mới.

Hiện tại, chỉ có khoảng 20% đầu vào của trang trại gió có nguồn gốc địa phương trong khu vực, nhưng với nhu cầu bền vững, con số này có thể tăng lên từ 66% đến 80% tổng giá trị đầu tư. Ông Hauber cho rằng thị trường trang trại gió ngoài khơi kết hợp với tàu chuyên dụng mang lại cơ hội đầu tư khoảng 878 tỷ USD cho đến năm 2050.

Tiềm năng chưa được khai thác

Báo cáo tập trung vào các mục tiêu công suất hiện đã được công bố cho năng lượng mặt trời và gió ngoài khơi, nhưng tiềm năng của thị trường có thể lớn hơn nhiều.

Nếu chi phí vốn cho hệ thống điện mặt trời và gió ngoài khơi tiếp tục giảm như dự báo, những công nghệ này sẽ mang lại chi phí điện năng thấp nhất trên mỗi lưới điện quốc gia. Với chi phí năng lượng hấp dẫn như vậy, các mục tiêu về công suất có thể sẽ được mở rộng để thu được lợi ích kinh tế.

Hiện nay, hầu hết các nước Châu Á-Thái Bình Dương dường như đang đánh giá thấp cơ hội này. Báo cáo nhấn mạnh rằng, mặc dù phần lớn các quốc gia trong khu vực đều có nguồn tài nguyên năng lượng mặt trời và gió đẳng cấp thế giới, việc bổ sung công suất tái tạo theo kế hoạch vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong nguồn cung cấp điện.

Ví dụ, Indonesia có một trong những cơ sở năng lượng mặt trời nhỏ nhất ở châu Á, với mức bổ sung thấp nhất so với nguồn tài nguyên sẵn có. Nhật Bản, mặc dù có một trong những nguồn tài nguyên gió tốt nhất trên toàn cầu, nhưng lại có mục tiêu chương trình điện gió ngoài khơi rất khiêm tốn, hướng tới chưa đến 5% tổng nhu cầu vào năm 2050.

Theo ông Hauber, hiện tại cần có sự điều chỉnh chính sách để giúp các nước nhận ra tiềm năng này. Cần phải tập trung vào việc tối đa hóa các bổ sung công suất với chi phí thấp trên quy mô lớn sẽ tạo ra nhu cầu định kỳ, cho phép các ngành công nghiệp địa phương tận dụng chuỗi cung ứng năng lượng mặt trời và gió ngoài khơi.

Ông Hauber kết luận: “Cuối cùng, các doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi từ khối lượng phát triển cao hơn, người tiêu dùng được hưởng lợi nhờ chi phí điện biên dài hạn thấp nhất và chính phủ sẽ thu được lợi ích từ cả hai điều này, cũng như tiến bộ đáng kể hướng tới mục tiêu khử carbon”.

Nh.Thạch

AFP

Nguồn PetroTimes: https://nangluongquocte.petrotimes.vn/du-bao-tiem-nang-dau-tu-nang-luong-tai-tao-tai-chau-a-tu-nay-den-nam-2050-713467.html