Dự thảo Luật Dầu khí: Khai thác tận thu dầu khí chỉ giao cho PVN thực hiện
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) quy định, việc khai thác tận thu chỉ giao cho PVN thực hiện.
Bộ Công thương xây dựng, ban hành các hướng dẫn
Báo cáo trước Quốc hội ngày 25/10 về giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi), ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, cho biết, dự án Luật Dầu khí (sửa đổi) đã được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.
Dự thảo luật đã được chỉnh lý gồm 11 chương, 69 điều (trong đó, có 38 điều sửa đổi, bổ sung nội dung, 22 điều chỉnh sửa câu chữ, kỹ thuật văn bản, bãi bỏ 6 điều, bổ sung 11 điều và giữ nguyên 4 điều).
Về một số ý kiến đề nghị cân nhắc điều chỉnh quy định về thẩm quyền phê duyệt hợp đồng dầu khí, ông Vũ Hồng Thanh cho biết, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hợp đồng chia sản phẩm dầu khí là thỏa thuận pháp lý quan trọng giữa Nhà nước và nhà thầu ký kết hợp đồng dầu khí.
Hợp đồng này sẽ ràng buộc quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia thực hiện hoạt động tìm kiếm thăm dò, khai thác tài nguyên dầu khí quốc gia, có tính chất dài hạn, có nhiều nội dung đặc thù có liên quan đến quốc phòng, an ninh, chủ quyền, mặt biển.
Vì vậy, cần thiết quy định Thủ tướng Chính phủ phê duyệt toàn bộ nội dung hợp đồng dầu khí, kế thừa quy định của Luật Dầu khí hiện hành.
Theo ông Vũ Hồng Thanh, dự thảo Luật Dầu khí đã bổ sung Điều 55 quy định về chính sách khai thác tài nguyên đối với mỏ dầu khí khai thác tận thu, phân biệt với chính sách ưu đãi đầu tư dầu khí theo hướng thực sự tạo cơ chế đột phá, mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước, kể cả trong trường hợp doanh thu trừ chi phí thấp hơn thuế tài nguyên phải nộp.
Cụ thể, toàn bộ chênh lệch giữa doanh thu và chi phí thực hiện khai thác tài nguyên đối với mỏ dầu khí khai thác tận thu được nộp vào ngân sách Nhà nước, mà không phải trích nộp trước thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu dầu khí.
Để bảo đảm chặt chẽ, dự thảo luật ràng buộc nguyên tắc bảo đảm hiệu quả hoạt động khai thác tận thu và kiểm soát chặt chẽ chi phí hoạt động dầu khí khi khai thác tận thu.
Đồng thời, dự thảo luật quy định việc khai thác tận thu chỉ giao cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thực hiện.
Bộ Công thương sẽ phải có trách nhiệm nghiên cứu xây dựng, ban hành, hướng dẫn về định mức chi phí, định mức kinh tế, kỹ thuật cho điều tra cơ bản về dầu khí và hoạt động dầu khí, trong đó có quy định việc khai thác tận thu...
Cần có quy định thật cụ thể, luật hóa chính sách khai thác tận thu
Góp ý dự thảo Luật Dầu khí, đại biểu Trần Thị Thu Phước (đoàn Kon Tum) cho biết, thống nhất với đề xuất về việc bổ sung vào dự thảo quy định về chính sách đặc thù đối với khai thác tận thu dầu khí theo hướng doanh nghiệp khai thác được thực hiện tính toán trực tiếp chênh lệch thu chi trong hoạt động khai thác.
Đồng thời không phải nộp trước thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu dầu khí và sau khi hợp đồng này kết thúc; giao cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam được tiếp quản quản lý, sử dụng tài sản công là các tài sản, công trình dầu khí đã được lắp đặt, đầu tư và khai thác.
Đại biểu Phạm Thúy Chinh (đoàn Hà Giang) cũng cho rằng, nên giao cho Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục tiếp nhận cơ chế theo dõi, quản lý cơ chế tài chính, quy định trách nhiệm của Tập đoàn Dầu khí, Bộ Công thương và các bộ, ngành liên quan trong tổ chức thực hiện điều luật này.
Còn đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn Bà Rịa - Vũng Tàu) bày tỏ, hoạt động dầu khí có tính chất đặc thù do tính rủi ro cao, tại thời điểm ký kết hợp đồng chưa thể lường hết được các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả tìm kiếm, thăm dò dầu khí, phát triển mỏ dầu khí và khai thác dầu khí.
“Do vậy, các quy định điều chỉnh liên quan đến mỏ dầu khí tận thu và các quy định về chính sách ưu đãi trong lĩnh vực dầu khí nói chung và mỏ tận thu nói riêng tại Điều 55 là một điểm quan trọng đột phá của Dự thảo Luật lần này”, đại biểu Hùng đánh giá.
Theo đại biểu, thời điểm hiện nay, một số mỏ dầu khí, các lô dầu khí sản lượng đã giảm, hoặc hết hạn hợp đồng, hoặc nhà thầu chấm dứt hợp đồng sớm dẫn đến việc suy giảm về hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về hoạt động này nên việc triển khai các dự án để tận thu nguồn tài nguyên quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Ngoài ra, các cơ chế ưu đãi để thu hút đầu tư không còn thực sự hấp dẫn so với các nước trong khu vực nên đây là rào cản cho các đối tác muốn đầu tư và hoạt động dầu khí tại Việt Nam.
Vì vậy, để có thể tiếp tục hoạt động khai thác tận thu mỏ dầu khí, nâng cao hiệu quả kinh tế và đóng góp vào NSNN đối với việc khai thác các mỏ này cần có quy định thật cụ thể, luật hóa chính sách khai thác tận thu đặc thù, phân biệt với cơ chế phân chia sản phẩm và nguyên tắc thu hồi chi phí của hợp đồng chia sản phẩm dầu khí.
Đại biểu đề nghị Chính phủ cần sớm nghiên cứu quy định chi tiết chính sách này, còn như quy định hiện nay của Dự thảo luật sẽ chưa thực hiện được tận thu mỏ dầu khí.