Đưa quy định mới vào cuộc sống, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường
Trong năm qua ngành Tài nguyên và Môi trường đã sáng tạo, hiệu quả, linh hoạt với quyết tâm cao nhất để thực hiện 3 mục tiêu: phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả; phát huy được các tiềm lực về tài nguyên đóng góp cho tăng trưởng, phục hồi phát triển kinh tế, xã hội, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn; đồng thời xây dựng các nền tảng cho một thập kỷ phát triển bền vững dựa trên các hệ sinh thái.
Nhân dịp năm mới Xuân Nhâm Dần 2022, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trả lời phỏng vấn của báo chí. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Sáng tạo, hiệu quả, linh hoạt với quyết tâm cao
Thưa Bộ trưởng, có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề tài nguyên và môi trường lại là tâm điểm của các chương trình nghị sự phát triển của toàn cầu và của đất nước như hiện nay. Nhìn lại kết quả công tác năm 2021 của ngành Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng có nhận xét, đánh giá gì?
Chúng ta vừa trải qua một năm hết sức đặc biệt, thiên tai dưới tác động của biến đổi khí hậu và sự bùng phát dịch COVID-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển kinh tế - xã hội, làm ngưng trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thiên tai và biến đổi khí hậu đã trở thành tình trạng khẩn cấp của nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu.
Trong bối cảnh đó ngành Tài nguyên và Môi trường đã sáng tạo, hiệu quả, linh hoạt với quyết tâm cao nhất để thực hiện 3 mục tiêu: phòng, chống dịch hiệu quả; phát huy được các tiềm lực về tài nguyên đóng góp cho tăng trưởng, phục hồi phát triển kinh tế, xã hội, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn; đồng thời xây dựng các nền tảng cho một thập kỷ phát triển bền vững dựa trên các hệ sinh thái.
Nhiều chủ trương lớn tổng kết, đánh giá để hoàn thiện như Nghị quyết số 19 về đất đai, Nghị quyết số 02 về khoáng sản, Tổng kết thi hành và sửa đổi Luật Đất đai năm 2013, Luật Tài nguyên nước với tiêu chí cao nhất về tính minh bạch trong tiếp cận thông tin, chia sẻ lợi ích từ nguồn lợi tài nguyên, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tiết kiệm, hiệu quả, bền vững phải được ưu tiên cao nhất trong các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên.
Hoàn thành xây dựng đồng bộ chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Các vướng mắc từ thực tiễn, chồng chéo trong pháp luật đã được rà soát ở 440 văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để khơi thông, giải phóng các nguồn lực tài nguyên đảm bảo đáp ứng các điều kiện đầu vào liên tục của nền kinh tế (như quỹ đất, nước, khoáng sản,...), đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng, các cân đối lớn. Hoàn thành trình Quốc hội quy hoạch quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050, đây là quy hoạch sử dụng đất quốc gia đầu tiên được phê duyệt.
Thủ tục hành chính tiếp tục được cắt giảm thực chất, giảm 40% thủ tục hành chính 20-85 ngày đối với các thủ tục về môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã về đích hoàn thành mục tiêu của Chính phủ về phát triển chính phủ điện tử với 100% thủ tục được thực hiện trực tuyến, 80% ở cấp độ 4; việc xử lý, giải quyết hồ sơ, ký số được thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng (trừ văn bản mật).
Từng bước thiết lập nền tảng tài nguyên số để phát triển kinh tế số ngành Tài nguyên và Môi trường với cơ sở dữ liệu về thông tin địa lý (dự kiến vận hành vào năm 2022), dữ liệu viễn thám, số hóa cơ sở dữ liệu đất đai của 216 đơn vị cấp huyện với 8,63 triệu hồ sơ địa chính điện tử, số hóa thông tin địa chính của 42.984 thửa đất.
Chúng ta không chỉ đảm bảo các điều kiện tài nguyên đầu vào cho nền kinh tế như: quỹ đất cho triển khai các dự án hạ tầng, thu hút, đón nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,… mà còn đóng góp nguồn thu ngân sách. Thu ngân sách từ đất năm 2021 đạt trên 172,25 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,2% tổng thu ngân sách nội địa, cao gấp 3,5 lần năm 2015. Nếu tính từ năm 2016 đến nay, thu từ nguồn lực đất đai đạt hơn 1,05 triệu tỷ. Nguồn thu từ tài nguyên nước ước đạt khoảng 5.900 tỷ đồng, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đạt 5.715 tỷ đồng. Đây là nguồn lực quan trọng của đất nước cho phục hồi kinh tế, phòng chống dịch, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Với sự điều hành sáng tạo trong vòng 3 tháng, Bộ đã trình Chính phủ ban hành 3 nghị quyết chuyên đề giải quyết tình trạng thiếu vật liệu cho phát triển hệ thống giao thông trọng điểm, nguyên liệu cho sản xuất sắt thép.
Lợi thế về biển đang được phát huy, các địa phương có biển đã trở thành khu vực phát triển năng động, thu hút nguồn lực đầu tư, tạo động lực phát triển, mở cửa.
Vấn đề môi trường, khí hậu được đặt ở vị trí ưu tiên cao nhất trong chương trình nghị sự, kế hoạch phát triển của đất nước với mục tiêu bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường. Năm 2021, năm đánh dấu bước chuyển biến với hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, các chỉ tiêu về môi trường hoàn thành vượt mục tiêu. Bài toán về rác thải đã có lời giải với các dự án đã, đang triển khai sẽ xử lý 30% rác thải sinh hoạt theo hình thức đốt rác phát điện đạt 157MW. Kinh tế tuần hoàn bước đầu đã được phát triển công nghiệp tái chế, xử lý rác thải, nước thải tăng 3%.
Trước các tác động ngày càng cực đoan, khó lường của biến đổi khí hậu, ngành đã chủ động tham mưu cho Chính phủ các giải pháp chiến lược, cam kết mạnh mẽ, hết sức thực tiễn trong giải quyết thách thức chung lớn nhất của toàn cầu. Qua đó, mở ra nhiều cơ hội chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tiếp cận tri thức, công nghệ, tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt là các dòng tín dụng, đầu tư cho hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng.
Trong đại dịch, đội ngũ cán bộ khí tượng thủy văn vượt khó để cho ra các bản tin dự báo thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất, kinh doanh, phòng, chống giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Qua đó, thiệt hại về người giảm 54%, thiệt hại về tài sản giảm 78% so với trung bình 10 năm vừa qua.
Nỗ lực của toàn ngành được người dân, đánh giá, ghi nhận cao qua chỉ số hài lòng từ phía người dân. Năm 2021, tỷ lệ người dân hài lòng về dịch vụ công về đất đai, môi trường tăng 4,14%; tỷ lệ doanh nghiệp phản ánh sự phiền hà trong thực hiện thủ tục hành chính giảm 7%, phải trả chi phí không chính thức về đất đai giảm 4% (theo báo cáo PCI).
Tỷ lệ người dân quan ngại về môi trường giảm từ 8,85% năm 2019 xuống còn 4,03%. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xếp thứ 5 trong số các bộ, ngành về chỉ số cải cách hành chính. Các chỉ số về bảo vệ môi trường đã đóng góp quan trọng đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam ở vị trí 51/165 quốc gia và vùng lãnh thổ tăng 37 bậc so với năm 2016 (vị trí 88).
Những kết quả đáng tự hào đó đạt được là nhờ quyết tâm của cả hệ thống chính trị, toàn dân, đặc biệt là nỗ lực, cố gắng, tinh thần trách nhiệm, đổi mới, sáng tạo của từng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong Ngành.
Kỷ cương, trách nhiệm, đổi mới, hội nhập, hiệu quả
Năm 2022, ngành Tài nguyên và Môi trường đứng trước nhiều cơ hội và có cả không ít thách thức. Xin Bộ trưởng cho biết Ngành sẽ cần tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt nào để chuyển hóa khó khăn, tạo cơ hội và động lực cho sự phát triển?
Đời sống kinh tế - xã hội thế giới đang thay đổi nhanh chóng, “luật chơi mới” về đầu tư, thương mại đã hình thành sau Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc (COP26). Phục hồi xanh sau đại dịch COVID-19, mục tiêu trung hòa carbon, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo cùng với bảo vệ, khôi phục hệ sinh thái tự nhiên đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Đòi hỏi phải tạo ra những thay đổi cơ bản trong tư duy và hành động, nắm bắt xu thế của thời đại, phải trở thành những người tiên phong đổi mới đột phá về thể chế, thực hiện các cam kết quốc tế về môi trường và khí hậu. Ngành Tài nguyên và Môi trường sẽ thực hiện sâu sắc phương châm “Kỷ cương, trách nhiệm, đổi mới, hội nhập, hiệu quả” trong năm 2022.
Trước hết, ngành tập trung hoàn thiện đồng bộ thể chế trong đó trọng tâm là: Hoàn thành tổng kết Nghị quyết số 19 về đất đai trình Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết mới; tổng kết Nghị quyết số 24 về tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng, trình Quốc hội dự án Luật Đất đai (sửa đổi); xây dựng Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với mục tiêu cao nhất tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Các nguồn tài nguyên phải được điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm kê, quy hoạch và hạch toán đầy đủ, phân bổ hợp lý cho phát triển trước mặt và lâu dài. Nguồn lợi từ tài nguyên phải được tái đầu tư cho tương lai bền vững.
Hoàn thiện để trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về khoáng sản; tổng kết đánh giá và lập hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật Địa chất và Tài nguyên khoáng sản; trình Quốc hội Quy hoạch sử dụng không gian biển quốc gia và xây dựng đồng bộ hệ thống quy hoạch về tài nguyên và môi trường.
Bên cạnh việc quản lý, sử dụng khai thác tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn hữu hạn; ngành sẽ tiếp tục xây dựng tạo lập tài nguyên số từ các dữ liệu lớn về đất đai, thông tin địa lý, quan trắc, viễn thám, dữ liệu khí hậu để thực hiện mục tiêu kinh tế hóa tài nguyên, môi trường và phát triển kinh tế số.
Ngành tiếp tục phân cấp thẩm quyền đi đôi với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi, thượng tôn pháp luật; tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm pháp luật, thất thoát, lãng phí, trong quản lý tài nguyên và môi trường, các hành vi nhũng nhiễu, hành dân gây bức xúc trong dư luận. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng môi trường, đổi mới sáng tạo.
Ngành triển khai Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; tập trung rà soát tình trạng lãng phí đất đai, đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường, các dự án có vướng mắc sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán,...trên phạm vi cả nước lập các tổ công tác liên ngành của Trung ương và địa phương xử lý, giải quyết đưa quỹ đất vào sử dụng hiệu quả, giải phóng nguồn lực cho phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội. Xây dựng được các giải pháp chiến lược tổng thể về an ninh tài nguyên nước, bao gồm các chủ trương, đối sách trong chia sẻ tài nguyên nước xuyên biên giới.
Phát triển các ngành kinh tế biển, hành lang kinh tế ven biển, điện gió ngoài khơi, khai hoang, lấn biển. Ứng dụng phương pháp, công nghệ tiên tiến trong quản trị tài nguyên khoáng sản.
Xu thế của thế giới hậu COVID-19 sẽ là tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo cùng với bảo vệ, khôi phục hệ sinh thái tự nhiên, cần đặt môi trường, khí hậu ở vị trí ưu tiên cao nhất trong chương trình nghị sự, kế hoạch phát triển và thu hút đầu tư. Triển khai hiệu quả Luật Bảo vệ môi trường, chặn đà và từng bước đảo ngược xu thế suy thoái về môi trường, các hệ sinh thái; phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh dựa vào sự cân bằng và khả năng cung ứng của hệ sinh thái. Thu hút nguồn lực xã hội trong xử lý chất thải, rác thải theo mô hình đốt rác, phát điện, tái chế thay cho chôn lấp.
Thực hiện giải pháp chiến lược, đột phá triển khai kết quả Hội nghị COP26; hoàn thiện thể chế, chính sách; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi, chủ động tận dụng các cơ hội hợp tác, tiếp cận công nghệ và đón đầu các dòng vốn đầu tư xanh vào hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng phục vụ chuyển đổi mô hình phát triển. Hiện đại hóa công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, giám sát biến đổi khí hậu; giám sát, dự báo, cảnh báo thiên tại kịp thời, tin cậy.
Ngành tiếp tục điều tra, đánh giá đầy đủ, thực chất tiềm năng các nguồn tài nguyên, kiểm kê, lượng hóa để hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế; áp dụng phương pháp tiên tiến trong quản trị tài nguyên. Tìm kiếm các loại vật liệu mới, năng lượng sạch, bền vững.
Ngành tăng cường hợp tác quốc tế nhất là ngoại giao về khí hậu, môi trường, chia sẻ khai thác tài nguyên nước xuyên biên giới, tài nguyên biển; kiện toàn tổ chức bộ máy, cắt giảm các tổ chức trung gian nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ; tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến trong quản lý, sử dụng tài nguyên và môi trường.
Đưa các chính sách, quy định mới vào cuộc sống
Thưa Bộ trưởng, Chính phủ vừa ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone, và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, xin Bộ trưởng cho biết nội dung chính, cách thức tổ chức và hướng dẫn triển khai các Nghị định này để sớm đưa Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 vào cuộc sống?
Để thực hiện các quy định của Luật và Nghị định, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành các thông tư theo thẩm quyền. Các văn bản này đã bảo đảm các quy định, hướng dẫn cần thiết để triển khai Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Tuy nhiên, để đưa ngay các chính sách của Luật đi cuộc sống, tôi cho rằng cần phải có sự vào cuộc quyết liệt của các địa phương, trong đó tập trung vào các hoạt động chính.
Đó là đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nội dung, chính sách mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và văn bản hướng dẫn thi hành đến nhân dân và cán bộ quản lý các cấp, đặc biệt là các quy định mới như giấy phép môi trường, phân loại chất thải tại nguồn, thực hiện kinh tế tuần hoàn …; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và các lĩnh vực có liên quan; nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của người dân trong tuân thủ Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Rà soát, cập nhật, bổ sung chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương trong giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên cơ sở các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; rà soát, cập nhật, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật môi trường địa phương, bảo đảm phù hợp với trình độ kỹ thuật, công nghệ, mức độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, hài hòa với quy định của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Nâng cao trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, công chức trong giải quyết thủ tục hành chính về môi trường, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, công khai, minh bạch, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; xử lý nghiêm hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Chủ động rà soát, sàng lọc, phân loại các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 để có biện pháp kiểm soát, giám sát chặt chẽ, không để xảy ra ô nhiễm, sự cố môi trường.
Khẩn trương xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về môi trường, cơ sở dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu, hướng tới phát triển nền tảng số, kinh tế số về môi trường, biến đổi khí hậu; hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường của bộ, ngành, cấp tỉnh bảo đảm đồng bộ, tích hợp, kết nối, liên thông với hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia.
Rà soát các dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cần kiểm soát chặt chẽ về môi trường thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật và Nghị định để thực hiện các biện pháp kiểm soát phù hợp, bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan và các địa phương để hướng dẫn, triển khai các quy định mới của Nghị định nhằm đưa các chính sách, quy định mới đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trong tình hình mới.
Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!