Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai: Cần lộ trình phù hợp với thực tiễn từng địa phương
Đại biểu Quốc hội đề nghị cân nhắc lộ trình thực hiện mục tiêu 100% cơ sở giáo dục có đủ thiết bị dạy học, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai.
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận ở Tổ về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035.
Tại Tổ 16 gồm Đoàn ĐBQH TP. Đà Nẵng và các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, qua thảo luận, các ý kiến thống nhất cao với sự cần thiết về ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035; đồng tình cao với Tờ trình cũng như Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa và Xã hội đối với dự thảo Nghị quyết.
Đánh giá cao trong những năm vừa qua, ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên, đại biểu Đoàn Thị Lê An - Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng cho rằng, khoảng cách chất lượng giữa các vùng miền vẫn còn lớn và hạ tầng số, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu.
Đổi mới đội ngũ giáo viên thiếu hụt, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn; đào tạo nghề và giáo dục đại học vẫn chưa đáp ứng đủ nhân lực cho ngành mũi nhọn.
Trong bối cảnh đó, đại biểu Đoàn Thị Lê An khẳng định, việc xây dựng CTMTQG cho giai đoạn 2026-2035 là hết sức cần thiết nhằm tăng tính tập trung nguồn lực, bảo đảm sự điều phối liên ngành và tạo bước đột phá cho hệ thống giáo dục trong thập kỷ tới.

Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải dự Phiên thảo luận Tổ 16. Đại biểu Quản Minh Cường, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng điều hành thảo luận
Chương trình đã đề ra mục tiêu: Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó năm 2030 phấn đấu tối thiểu 30% cơ sở giáo dục phổ thông có giáo viên đủ năng lực giảng dạy một số môn khoa học tự nhiên và STEM/STEAM bằng tiếng Anh và triển khai thí điểm dạy học bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai ở một số môn.
Năm 2035 phấn đấu đạt 100% cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Đại biểu Đoàn Thị Lê An - Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng phát biểu.
Đánh giá kỹ những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất, nhân lực và môi trường để triển khai
Theo Quochoi.vn, nhấn mạnh đây là một định hướng lớn, thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng, tuy nhiên, đại biểu Đoàn Thị Lê An bày tỏ băn khoăn về tính khả thi của mục tiêu này. Đại biểu cho rằng, để triển khai thành công thì chúng ta cần phải đánh giá thẳng thắn, kỹ lưỡng những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất cũng như nhân lực và môi trường để triển khai.
“Thực tế hiện nay, chúng ta có những vướng mắc về cơ sở vật chất, về nguồn lực và giáo viên. Theo đó, sự chênh lệch đầu tư về cơ sở vật chất giữa các vùng miền rất lớn. Mạng Internet tuy được cải thiện mạnh, song tốc độ và hạ tầng chưa đồng đều để triển khai dạy học trực tuyến hỗ trợ tiếng Anh”, đại biểu lo ngại.
Chỉ rõ thực trạng khu vực miền núi như tại tỉnh Cao Bằng, gần 70% trường phổ thông vẫn chưa đạt chuẩn về thiết bị công nghệ phục vụ học ngoại ngữ, nhiều điểm trường lẻ của vùng dân tộc thiểu số còn chưa có phòng học kiên cố, đại biểu nhận thấy, chỉ tiêu 30% vào năm 2030 có thể khả thi ở các tỉnh, thành phố lớn, nhưng rất thách thức tại khu vực miền núi như Cao Bằng, Tuyên Quang, Lai Châu… những nơi điều kiện cơ sở vật chất chưa đồng bộ.
Bên cạnh đó, tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên tiếng Anh là “điểm nghẽn” lớn nhất, nhiều địa phương hiện thiếu hàng nghìn giáo viên ngoại ngữ đạt chuẩn.

Các đại biểu tại Phiên thảo luận Tổ 16
“Và mốc 2030 hoàn thành 30% cơ sở giáo dục sẽ khả thi với điều kiện chúng ta tập trung vào đô thị và đồng bằng trước. Xây dựng mô hình thí điểm “trường trọng điểm tiếng Anh” tại tỉnh miền núi, nhưng chỉ nên chọn trường trung tâm”, đại biểu kiến nghị.
Vì vậy, để đạt được mục tiêu nêu trên, đại biểu Đoàn Thị Lê An đề nghị cần đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên; hỗ trợ đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi và có lộ trình phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng địa phương.
Cụ thể, ban hành Chương trình quốc gia đào tạo giáo viên giảng dạy môn học bằng tiếng Anh, mục tiêu đào tạo ít nhất 20.000 giáo viên môn Toán - Khoa học tự nhiên - Tin học có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh đến năm 2035.
Đồng thời, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các tỉnh miền núi như: hỗ trợ xây dựng phòng ngoại ngữ chuẩn cho 100% trường huyện miền núi trước năm 2030; Ưu tiên vùng miền núi, biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu…
Cùng với đó, đại biểu cho rằng, cần có chính sách thu hút giáo viên tiếng Anh chất lượng cao như quan tâm tăng phụ cấp thu hút lên 70%-100% lương cơ bản cho giáo viên về vùng khó khăn; hỗ trợ nhà ở, cam kết hợp đồng dài hạn.

Đại biểu Ma Thị Thúy - Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang phát biểu.
Cùng quan điểm, đại biểu Ma Thị Thúy - Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang cũng băn khoăn tính khả thi của mục tiêu nêu trên, nhất là đối với các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đại biểu cho rằng, dự thảo cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các mục tiêu và cơ chế thực hiện để bảo đảm tính thực tiễn.
“Thực tế, nhiều xã miền núi hiện nay còn thiếu giáo viên tiếng Anh cơ bản; hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị nghe - nhìn còn rất hạn chế. Việc yêu cầu 100% cơ sở giáo dục có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai vào năm 2035 là mục tiêu rất cao, tiệm cận với các quốc gia phát triển”, đại biểu nêu quan điểm.
Do đó, đại biểu đề nghị Chính phủ cân nhắc lộ trình đặc thù cho miền núi; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kết nối lớp học trực tuyến, AI để bù đắp thiếu giáo viên; xây dựng trung tâm tiếng Anh vùng khó khăn theo mô hình liên xã.













