Đưa tư tưởng học tập suốt đời và ý chí, khát vọng vươn lên vào bối cảnh mới

Cách đây tròn 78 năm, ngày 10/11/1947, Bác Hồ viết 'Thư gửi ông giám đốc và toàn thể nam nữ giáo viên Bình dân học vụ Khu III' khen ngợi tỉnh Hải Dương có 6 làng toàn dân biết chữ. Bác đồng thời nhắc nhở: '... tôi mong rằng các lớp bình dân học vụ chẳng những dạy cho đồng bào học chữ, làm tính mà dạy thêm về công cuộc kháng chiến, cứu nước, tăng gia sản xuất, giúp mùa đông binh sĩ, giúp đồng bào tản cư, khoa học thường thức' (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 307, 709).

Bức thư được viết sau 2 năm Bác phát động phong trào “Bình dân học vụ” (1945) với mục tiêu “diệt giặc dốt”. Việc sớm xóa nạn mù chữ thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của Đảng và Bác Hồ, giúp nâng cao dân trí, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Đồng thời, thông qua phong trào cách mạng này, đã góp phần khẳng định và bồi đắp tinh thần đoàn kết, khát vọng và ý chí vươn lên của dân tộc đang “rũ bùn đứng dậy”.

“Bình dân học vụ số” là phong trào kế thừa Tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự vận dụng và phát huy một bài học cách mạng và là một bước tiến quan trọng, đưa tư tưởng học tập suốt đời và ý chí vươn lên của người Việt Nam vào bối cảnh mới, đáp ứng yêu cầu của công cuộc chuyển đổi số quốc gia. Như Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nhấn mạnh: "Chúng ta không chỉ kế thừa di sản quý báu của lịch sử, mà còn phải biết ứng dụng nó vào thực tiễn hiện nay. Việc trang bị tri thức số sẽ giúp người dân tự tin hơn trong môi trường số, chủ động nắm bắt cơ hội và thích nghi với sự phát triển của công nghệ".

Từ khi phát động (tháng 3/2025) đến nay, “Bình dân học vụ số” vừa có diện bao phủ rộng khắp trên mọi vùng miền, vừa phổ cập vào từng gia đình, đến mỗi người dân, vừa có sự tác động tích cực bởi những chính sách, cách làm linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng. Học tập để trở thành một công dân số không còn là mệnh lệnh, trách nhiệm, nghĩa vụ mà dần trở thành một nhu cầu tự thân của mỗi người dân. Đồng hành “không để ai bị bỏ lại phía sau” để kiến tạo nên một “xã hội số” là những “Tổ công nghệ cộng đồng” do các đoàn thể phát động với các “hạt nhân” là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công an, bộ đội... đảm nhận vai trò hướng dẫn, hỗ trợ.

Họ - chính là những người tổ chức, tập hợp, khơi dậy ngọn lửa nhiệt huyết từ những hành động nhỏ nhưng thiết thực trong một phong trào cách mạng mới - như lời Bác căn dặn về “dạy thêm” cho đồng bào, như đã nhắc đến ở đầu bài viết. Từ việc hình thành các “Tổ dân phố học tập số”, “Chợ số”, “Giờ giải lao số” trong công nhân,... đã giúp thêm một người cao tuổi biết ứng dụng VNeID, một thanh niên đồng bào dân tộc thiểu số biết livestream bán nông sản kết hợp với xây dựng các clip quảng bá hình ảnh đất và người quê hương, một công nhân biết nhận diện và đấu tranh với các thông tin xấu, độc trên không gian mạng...

Tuy nhiên, vẫn còn đó những “điểm mù số”, những đối tượng “mù số” đến từ những vùng, miền và đối tượng đặc thù, đồng thời cá biệt có cả trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức. Điều này không chỉ dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận cơ hội phát triển mà còn trở thành những điểm nghẽn ngáng trở “bánh xe số”.

Vì thế, để một “hệ sinh thái số” thực sự phát huy tối đa nguồn lực, để “bình dân học vụ số” trở thành phong trào toàn dân, bên cạnh vai trò trách nhiệm dẫn dắt của người đứng đầu và những “giáo án” phù hợp, thì mỗi người dân, trước hết là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên phải thấm nhuần tinh thần học tập suốt đời, vì sự phát triển của bản thân, gia đình và cộng đồng - “học” còn để “dạy cho đồng bào”.

Nguyên Phong

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/dua-tu-tuong-hoc-tap-suot-doi-va-y-chi-nbsp-khat-vong-vuon-len-vao-boi-canh-moi-268197.htm