Được chúa Trịnh chiêu dụ bằng 5 khối vàng, Nguyễn Hữu Dật phản ứng sao?
Mùa thu, năm ấy, chúa Trịnh Tạc thấy quân mình liên tiếp bại trận, lòng rất lấy làm lo ngại, bèn tìm cách để chiêu dụ Nguyễn Hữu Dật về hàng.
Trịnh Tạc sai người đem một gói trân châu, cùng với năm khối vàng và một bức mật thư đưa cho Nguyễn Hữu Dật.
Theo sách "Đại Nam Thực lục Tiền biên" vào năm 1650, khi còn giữ chức ký lục châu Bố Chính, vì bị Tôn Thất Tráng gièm pha, nên Nguyễn Hữu Dật đã bị nhà vua hạ lệnh tống giam vào ngục một thời gian. Lần ấy, nhờ có tài văn chương mà ông được chúa Nguyễn hiểu và tha cho. Nội dung sự việc như sau: Mùa thu, năm ấy, Trịnh Tạc thấy quân mình liên tiếp bại trận, lòng rất lấy làm lo ngại, bèn tìm cách để chiêu dụ Nguyễn Hữu Dật về hàng. Trịnh Tạc sai người đem một gói trân châu, cùng với năm khối vàng và một bức mật thư đưa cho Nguyễn Hữu Dật.
Tranh vẽ Nguyễn Hữu Dật. Ảnh: Văn Hiến.
Nhận được thư, ông cả giận nhưng vẫn giả vờ nói với sứ giả rằng: Tháng sau, xin vương (ý chỉ Trịnh Tạc) hãy đem quân đến đón tôi ở trên sông.
Sứ giặc đi rồi, Hữu Dật lập tức đem tất cả thư từ và các thứ mà Trịnh Tạc gởi biếu để dâng lên chúa và tâu rằng: Thần thờ chúa thượng, ơn nghĩa như cha con, dám đâu có chí khác. Nhưng nay muốn mượn kế giặc để đánh giặc, lại sợ không tâu bày rõ ràng từ trước thì mang tội không gì lớn bằng.
Chúa trả lời: Ta vẫn biết khanh trung thành. Mọi thứ họ Trịnh tặng, khanh cứ nhận lấy, đừng nghĩ ngợi bận tâm làm gì. Hữu Dật nghe vậy thì mừng lắm.
Đến mùa đông, có người từ Bắc Hà đến, người này tên là Tộ Long đã nói với Nguyễn Hữu Dật rằng: Người ở Bắc đều cho rằng việc binh quý ở sự thần tốc, thế mà nay các tướng cứ ngần ngại không tiến, bỏ lỡ cơ hội, thật đáng tiếc. Hữu Dật hậu đãi người ấy rồi cho về. Sau đó, ông đến dinh của Hữu Tiến bàn việc xuất quân, nhân thuật lại lời của Tộ Long và Hữu Tiến hỏi rằng: Bây giờ Tộ Long ở đâu?
Hữu Dật đáp: Đã cho về rồi.
Nghe thế, Hữu Tiến im lặng, có vẻ không bằng lòng. Ngay lúc đó, các tướng dưới quyền là Tôn Thất Tráng, Tống Hữu Đại và Phù Dương đều nói: Đại binh đi chinh phạt thì lệnh ở nguyên soái (chỉ Nguyễn Hữu Tiến, vì lúc này Nguyễn Hữu Tiến giữ chức Tiết chế) sao dốc chiến lại tự ý cho Tộ Long về? Vả chăng, trước đây đã có bức mật thư, chúng tôi chưa hiểu hư thực thế nào. Nay chỉ một lời của Tộ Long, ai mà dễ tin được? Chi bằng hãy đóng quân chờ thời.
Nghe vậy, Hữu Tiến nói: Phải.
Ngay lúc đó, Hữu Dật đứng phắt dậy và nói: Tôi cùng chư tướng vâng mệnh ra quân, quyết chí báo đền ơn nước. Vừa đây, họ Trịnh gửi mật thư để chiêu dụ tôi thì tôi đã tức tốc báo lên, chính vì muốn tương kế tựu kế mà làm việc lớn. Các ông không nên ngờ vực nhau như thế.
Hữu Tiến nói: Bọn chúng ta chịu ơn nặng với nước nhà nên mới cùng nhau dốc lòng báo đáp chứ có nghi ngờ gì. Nhưng, các tướng bàn nên đợi thời, kể cũng có lý, đốc chiến nên theo là phải.
Hữu Dật nghe vậy, uất ức mà lâm bệnh.
Bấy giờ, quân lính đóng lại ở đất Bắc đã lâu, có ý nhớ nhà nên muốn về, quân Nghệ An mới đến hàng cũng có nhiều người trốn. Nguyễn Hữu Dật hăng hái muốn tiến đánh, nhưng các tướng khác thì phần lớn lại không hợp ý. Nguyễn Hữu Tiến thấy Nguyễn Hữu Dật nhiều lần được khen thưởng nên sinh lòng ghen ghét. Cũng lúc đó, tướng dưới quyền là Phù Dương nói với Hữu Tiến: Hữu Dật chẳng qua là đứa học trò mặt trắng, nhờ khéo nói năng mà được tin dùng, tự ví mình với Quản Trọng (mưu sĩ của nước Tề ở Trung Quốc vào thời Xuân Thu), Nhạc Nghị (mưu sĩ của nước Yên ở Trung Quốc vào thời Chiến Quốc), bọn chúng tôi vẫn lấy đó làm điều xấu hổ. Đã thế lại còn có sứ Trịnh bí mật đi lại, sợ có ý khác đấy.