Dưới cờ vinh quang: Đại hội lần thứ II - Dấu mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng

Năm 1951, sau 6 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, thế và lực của cuộc chiến tranh nhân dân đã phát triển vượt bậc. Phong trào cách mạng trưởng thành vững chắc, tạo điều kiện để Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II.

Thời điểm đó, phong trào kháng chiến của nhân dân 3 nước Đông Dương được tiếp thêm sức mạnh, tiến tới thắng lợi hoàn toàn nhờ vào sự ủng hộ to lớn về tinh thần và vật chất của Liên Xô, Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa. Trên các chiến trường, ta đã xây dựng được những vùng giải phóng rộng lớn, mở cửa thông thương quốc tế; lực lượng vũ trang ngày càng trưởng thành, có khả năng tiêu diệt những đơn vị chủ lực của địch. Song song với đó, hậu phương kháng chiến cũng từng bước được củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh lâu dài.

Tuy nhiên, trong khi ta ngày càng lớn mạnh, thực dân Pháp với sự hậu thuẫn của đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tăng cường chiến tranh, gây cho ta nhiều khó khăn, thử thách mới, đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.

Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập. Đây là Đại hội đầu tiên được tổ chức trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đại hội họp từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951 tại xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình, tỉnh Tuyên Quang).

Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên trong toàn Đảng, thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

Trong 10 ngày làm việc khẩn trương, dân chủ và đầy trách nhiệm, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận các báo cáo quan trọng. Đặc biệt, tại Đại hội, Đảng quyết định ra hoạt động công khai với tên gọi “Đảng Lao động Việt Nam”, một bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược, khẳng định sự trưởng thành về chính trị, tổ chức và tư duy lãnh đạo của Đảng.

Tại Đại hội lần thứ II, Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam đã được sửa đổi, nhiệm vụ đảng viên được bổ sung nội dung mới như phục vụ quần chúng, giáo dục quần chúng, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình, nêu gương trong mọi công tác cách mạng. Đại hội cũng nhấn mạnh việc mở rộng dân chủ, tăng cường tập trung, phát huy phê bình và tự phê bình trong Đảng.

Đặc biệt, Đại hội quyết định thành lập các tổ chức cách mạng riêng cho Lào và Campuchia, Đảng Lao động Việt Nam có trách nhiệm giúp đỡ bạn trong kháng chiến. Quyết định này thể hiện chủ trương sáng suốt, tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc, đồng thời kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Hội nghị Trung ương 8 (1941) về việc mỗi dân tộc phải tự đảm nhiệm sự nghiệp cách mạng của mình.

Đại hội lần thứ II của Đảng cũng đã đề ra đường lối, chiến lược toàn diện cho kháng chiến và kiến quốc, trong đó tập trung phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố hậu phương, mở rộng quan hệ với các lực lượng tiến bộ quốc tế, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc để tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất, tinh thần. Đồng thời, Đại hội cũng xác định nhiệm vụ xây dựng, củng cố và phát triển Đảng là then chốt, nhấn mạnh kiện toàn tổ chức, nâng cao trình độ lý luận, tư tưởng và phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên, nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn mới.

Từ những chủ trương đúng đắn của Đại hội, các chiến dịch quân sự lớn liên tiếp giành thắng lợi, từng bước đẩy lùi các cuộc tấn công của thực dân Pháp, tạo đà cho cuộc tiến công chiến lược 1953–1954, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.”

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng không chỉ là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn đối với phong trào cách mạng Việt Nam, mà còn là biểu tượng sáng ngời của ý chí kiên cường, tinh thần sáng suốt và khối đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân.

LÊ ĐỨC - LÊ HÙNG - THU THẢO - HƯƠNG GIANG

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/video-duoi-co-vinh-quang-dai-hoi-lan-thu-ii-dau-moc-quan-trong-trong-qua-trinh-lanh-dao-va-truong-thanh-cua-dang-post919445.html