ESG - trụ cột mới cho phát triển bền vững ngành ngân hàng Việt Nam
Trong bối cảnh chống biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh và yêu cầu minh bạch ngày càng trở nên cấp thiết, ESG (Môi trường Xã hội – Quản trị) đang dần trở thành tiêu chuẩn mới định hình hoạt động của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Nội dung này được thể hiện rõ tại Diễn đàn “ESG ngành Ngân hàng Việt Nam”, diễn ra ngày 26/11 do Học viện Ngân hàng (BAV) phối hợp cùng Tổ chức Oxfam Novib tổ chức, với sự tham dự của đại diện Ngân hàng Nhà nước (SBV) và các tổ chức tín dụng trong nước.
ESG – nhân tố tất yếu cho sự phát triển
Phát biểu tại sự kiện, TS Nguyễn Cẩm Chi - Giám đốc khối Phát triển bền vững Công ty TNHH Tư vấn và quản lý MCG (MCG Management Consulting Group) cho biết, ESG không chỉ giúp ngân hàng kiểm soát tốt hơn rủi ro tín dụng, mà còn mở rộng danh mục sản phẩm xanh, thu hút nguồn vốn giá rẻ từ các tổ chức quốc tế và đồng hành sâu hơn với doanh nghiệp trong hành trình chuyển đổi.

TS Nguyễn Cẩm Chi - Giám đốc khối Phát triển bền vững MCG Management Consulting Group trình bày tham luận tại hội thảo. Ảnh: BAV
Bà Chi đánh giá có ba lực đẩy lớn thúc đẩy ESG trong môi trường kinh doanh toàn cầu và trong nước:
Thứ nhất, dòng vốn quốc tế thay đổi mạnh sau Hội nghị Các bên tham gia công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 28 vào năm 2023 (COP28). Các định chế tài chính lớn trên thế giới như IFC, ADB, JICA hay World Bank đã đưa ESG và Khung Quản lý Rủi ro Môi trường – Xã hội (ESRM) thành điều kiện bắt buộc khi cấp vốn. Do đó, các ngân hàng Việt Nam muốn tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp phải xây dựng hệ thống ESG nội bộ, đồng thời yêu cầu doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai là việc chuỗi cung ứng toàn cầu siết chặt tiêu chuẩn bền vững. Doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chịu áp lực từ các quy định mới như CSRD (Chỉ thị Báo cáo Bền vững Doanh nghiệp) của EU; SEC Climate Disclosure (Quy tắc Công bố Thông tin Liên quan đến Khí hậu) của Mỹ; hay ASEAN Taxonomy (Phân loại các hoạt động kinh tế bền vững khu vực ASEAN). Ngân hàng vì vậy trở thành đối tác chiến lược trong hỗ trợ doanh nghiệp minh bạch khí thải, cải thiện điều kiện lao động và siết chặt quản trị chuỗi cung ứng.
Thứ ba, Việt Nam bước vào giai đoạn tuân thủ bắt buộc. Các chính sách như Chiến lược Tăng trưởng Xanh, Basel III, Quyết định 167/QĐ-TTg về lộ trình Net Zero 2050 hay Quyết định 21/2023/QĐ-TTg về phân loại dự án xanh đang định hướng ngân hàng ưu tiên vốn cho hoạt động xanh và sản phẩm giảm phát thải.
Theo xu hướng quốc tế, các ngân hàng quốc tế lớn như HSBC, DBS, OCBC đã chuyển trọng tâm từ đánh giá rủi ro sang đồng hành cùng doanh nghiệp trong chuyển đổi xanh. Tại Việt Nam, việc áp dụng ESRM dựa trên tiêu chuẩn IFC Performance Standards (Tiêu chuẩn hiệu suất của IFC) giúp ngân hàng sớm nhận diện rủi ro, đề xuất giải pháp giảm thiểu và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn dài hạn. Doanh nghiệp có chiến lược ESG rõ ràng được hưởng nhiều lợi thế, trong đó có việc giảm phần bù rủi ro khi vay.
Cùng với đó, theo bà Chi, các sản phẩm tài chính xanh ngày càng đóng vai trò quan trọng: Green Loans (Cho vay dự án xanh với lãi suất ưu đãi); Sustainability-Linked Loans (SLLs - Gắn chỉ số hiệu suất bền vững vào điều khoản vay); Transition Finance (Tài trợ chuyển đổi cho các ngành khó giảm phát thải).
Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực
Các nghiên cứu quốc tế và khảo sát trong nước cho thấy giáo dục đại học Việt Nam đang tích cực tích hợp ESG vào chương trình đào tạo, song vẫn đối mặt khoảng trống lớn về chuyên môn và nhân lực.
Trích dẫn báo cáo năm 2022 của Ernst and Young, TS Nguyễn Thị Khánh Phương (Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng – Học viện Ngân hàng) cho biết, có 75% cơ sở giáo dục đại học đánh giá “tính bền vững môi trường” là yếu tố quan trọng hàng đầu. Khung năng lực châu Âu về tính bền vững (2022) cũng nhấn mạnh đào tạo ESG phải vượt xa phần kiến thức nền tảng, hướng đến các năng lực chuyên sâu như nắm bắt tính phức tạp, hành động thực tiễn và hình dung tương lai xanh.

TS Nguyễn Thị Khánh Phương - đại diện Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng trình bày tham luận. Ảnh: BAV
Ở góc độ doanh nghiệp, khảo sát năm 2024 của Westford for Business ghi nhận 90% lãnh đạo coi phát triển bền vững là rất quan trọng. Tuy nhiên, chỉ 60% tổ chức có chiến lược ESG và 57% triển khai đào tạo nội bộ. Với ngành tài chính – ngân hàng tại Việt Nam, khảo sát năm 2022 của PwC cho biết 88–89% tổ chức đã cam kết ESG, nhưng có đến 73% đơn vị gặp khó khăn khi tích hợp rủi ro ESG vào khung rủi ro tín dụng hiện hành.
TS Nguyễn Thị Khánh Phương nhận định: “Doanh nghiệp đang tạo áp lực lớn buộc đại học phải cung cấp nhân lực ESG chất lượng cao, đồng thời mở ra cơ hội hợp tác đào tạo ngắn hạn”.
Theo tổng hợp của Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, các trường đại học đào tạo ngành kinh tế tại Việt Nam đang triển khai hai mô hình chính: tích hợp ESG vào các môn học liên quan tại Học viện Ngân hàng (BAV), Đại học Kinh tế Quốc Dân (NEU), Đại học Ngoại thương (FPT), Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN (UEH); và phát triển các chương trình chuyên biệt ở Đại học Kinh tế TP HCM với Viện Tài chính Bền vững.
Tại Học viện Ngân hàng, hệ thống học phần ESG trải rộng ở cả hệ đại trà và chất lượng cao, với nội dung đa ngành như tài chính xanh, quản trị bền vững hay du lịch bền vững. Nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này cũng tăng mạnh tại học viện, với đề tài sinh viên tăng từ 9 (2020) lên 38 (2024–2025), công bố quốc tế về ESG từ 7 (2020) lên 51 (2025). Nhà trường cũng tham gia dự án quốc tế “Tài chính xanh thúc đẩy giáo dục Đông Nam Á” giai đoạn 2025–2028.
Tại những trường khác, NEU có hệ thống môn học về môi trường và tài nguyên mạnh; FTU chú trọng kinh doanh xanh và chuỗi cung ứng bền vững; UEB tập trung kinh tế phát triển và phân tích chính sách; trong khi UEH sở hữu chương trình thạc sĩ quản trị bền vững gắn với dự án thực tiễn.
Theo bà Phương, dù nhận thức của các trường ngày càng cao và chương trình đào tạo đa dạng hơn, thách thức vẫn còn lớn: thiếu giảng viên chuyên sâu, số lượng học phần ESG còn hạn chế, giáo trình thiếu chuẩn quốc tế và sự phối hợp liên ngành chưa mạnh.
Để thúc đẩy chất lượng đào tạo và nghiên cứu, bà Phương đề xuất các giải pháp trọng tâm như xây dựng cơ sở dữ liệu ESG quốc gia; cập nhật chuẩn báo cáo bền vững quốc tế; mở rộng đào tạo liên ngành; hình thành nhóm nghiên cứu mạnh; gắn kết nghiên cứu với giảng dạy; và tăng cường hợp tác quốc tế.














