Hoàn thiện Luật Đầu tư sửa đổi, tạo cú hích thu hút dòng vốn chất lượng cao
Thảo luận Dự án Luật Đầu tư sửa đổi sáng nay (27/11/2025), các đại biểu Quốc hội đã tập trung phân tích nhiều nhóm vấn đề trọng tâm của dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi, từ danh mục cấm và ngành nghề có điều kiện, đến cơ chế ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư. Không chỉ phản ánh trách nhiệm lập pháp, các ý kiến thể hiện rõ tinh thần kiến tạo thể chế, bảo vệ lợi ích cộng đồng và định hình môi trường đầu tư minh bạch - ổn định - chọn lọc, phù hợp bối cảnh phát triển mới của Việt Nam.

Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh điều hành phiên họp
Khóa chặt ngay từ gốc sản phẩm gây hại
Ngay từ phần thảo luận đầu tiên, nhiều đại biểu nhấn mạnh tính cấp thiết của việc sửa đổi Điều 6 về danh mục ngành nghề cấm, coi đây là tuyến phòng vệ ban đầu của pháp luật trong bảo vệ sức khỏe cộng đồng và thế hệ trẻ. Đại biểu Phạm Trọng Nhân (TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, Luật Đầu tư phải khóa chặt ngay từ gốc đối với các sản phẩm gây hại, thay vì chạy theo cập nhật khi hậu quả xã hội đã hiện hữu.
Từ thực tiễn nghiên cứu độc tính khí N₂O và thực trạng sử dụng bóng cười trong giới trẻ, ông khẳng định đây là thị trường vận hành ngoài mọi kiểm soát, không giấy phép, không tiêu chuẩn, không truy xuất nguồn gốc, không kiểm định y tế và không báo cáo định kỳ. Vì thế, giải pháp duy nhất là đưa khí N₂O và các chất hướng thần mới vào Điều 6 để cấm tuyệt đối. Ông nêu rõ nguyên tắc quản trị rủi ro: nếu sản phẩm có nguy cơ cao và người sử dụng chủ yếu là nhóm yếu thế thì biện pháp phải là phòng ngừa tuyệt đối, không thể đợi đủ dữ liệu hay đủ số ca nhập viện mới cấm.
Quan điểm bảo vệ cộng đồng tiếp tục được làm rõ qua phát biểu của đại biểu Nguyễn Anh Trí (TP. Hà Nội). Ghi nhận dự thảo luật đã bổ sung thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng vào danh mục cấm, ông kiến nghị mở rộng phạm vi cho đầy đủ và khớp với tinh thần Nghị quyết 173 của Quốc hội. Theo ông, Điều 6 phải quy định cấm sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, vận chuyển, chứa chấp và sử dụng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng và các loại khí - chất gây nghiện. Điều khoản về chuyển tiếp cũng cần ràng buộc thời hạn chấm dứt tối đa 6-12 tháng để bảo đảm tính khả thi, tránh kéo dài gây lỗ hổng pháp lý.
Dưới góc nhìn bảo vệ thế hệ trẻ, đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên (Tây Ninh) phân tích số liệu của Bộ Y tế cho thấy tỷ lệ sử dụng thuốc lá điện tử ở học sinh 10-17 tuổi tăng hơn 3 lần chỉ trong 4 năm. Theo bà, việc bổ sung đầy đủ hành vi bị cấm vào Luật Đầu tư là rào chắn pháp lý nhằm ngăn chặn nguy cơ nghiện nicotine, ngụy trang ma túy và tệ nạn học đường. Việc cấm theo luật cũng sẽ làm rõ căn cứ cho các cơ quan chức năng xử lý vi phạm, kiểm soát thị trường và bảo đảm môi trường xã hội lành mạnh cho thanh thiếu niên.
Tinh thần chung của các ý kiến cho rằng, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo vệ thế hệ trẻ và giữ kỷ cương thị trường là ưu tiên cốt lõi trong xây dựng luật, với điểm nhấn là kiên quyết đưa các sản phẩm độc hại ra khỏi danh mục kinh doanh hợp pháp.
Ưu đãi phải hướng tới chất lượng đầu tư và hiệu quả phát triển
Bên cạnh nhóm quy định về cấm đầu tư kinh doanh, nhiều đại biểu tập trung phân tích Chương 3 của dự thảo liên quan đến ưu đãi và hỗ trợ đầu tư - nhóm chính sách quyết định năng lực thu hút dòng vốn chất lượng cao và hiệu quả phát triển kinh tế trong dài hạn. Đại biểu Đào Chí Nghĩa (Cần Thơ) cho rằng, dự thảo đã loại bỏ 25 ngành nghề kinh doanh có điều kiện là bước tiến quan trọng, nhưng với những ngành nghề liên quan trực tiếp đến chuyên môn và nghĩa vụ tài chính, việc bỏ điều kiện mà không có cơ chế hậu kiểm có thể dẫn đến rủi ro về chất lượng dịch vụ và minh bạch thị trường. Do vậy, ông đề nghị thiết lập cơ chế chứng chỉ hành nghề bắt buộc đối với lĩnh vực chuyên môn cao để bảo đảm chuẩn năng lực, đồng thời duy trì nguyên tắc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Ở góc độ thiết kế ưu đãi, đại biểu Lê Hoàng Anh (Gia Lai) nhấn mạnh rằng, ưu đãi đầu tư phải chuyển từ tư duy dựa vào quy mô sang đánh giá theo chất lượng. Theo ông, chính sách ưu đãi hiện thiên về vốn lớn và nhiều lao động trong khi mục tiêu quốc gia lại hướng tới bán dẫn, trung tâm dữ liệu, kinh tế số, năng lượng tái tạo và các ngành công nghệ mũi nhọn. Vì vậy, ưu đãi phải dựa trên các tiêu chí định lượng như tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, năng lượng tái tạo, mức phát thải carbon và tỷ lệ lao động chất lượng cao. Bên cạnh đó, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư phải được thiết kế theo rủi ro, tránh cơ chế “một kích cỡ cho tất cả”, giảm gánh nặng cho dự án rủi ro thấp và tăng giám sát đối với dự án rủi ro cao.
Tư duy ưu đãi gắn với hiệu quả đầu tư được nhấn mạnh thêm bởi đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân (TP. Hồ Chí Minh). Theo bà, dự thảo cần phân định rõ giữa ưu đãi (giảm gánh nặng chi phí cho nhà đầu tư) và hỗ trợ (tăng năng lực cạnh tranh), tránh chồng lấn và lạm dụng tại địa phương. Đặc biệt, ưu đãi phải gắn trực tiếp với kết quả thực hiện, có cơ chế thu hồi ưu đãi hoặc bồi hoàn nếu doanh nghiệp không đạt chỉ tiêu cam kết về giá trị gia tăng, công nghệ sạch hay lan tỏa chuỗi cung ứng. Với Quỹ hỗ trợ đầu tư theo Điều 16, bà đề nghị luật phải khẳng định cơ chế quản trị minh bạch, độc lập, công khai tiêu chí hỗ trợ và kiểm toán định kỳ để tránh rủi ro lợi ích nhóm.
Bảo đảm minh bạch và nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư
Nhóm thứ ba trong phiên thảo luận tập trung vào các vấn đề về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, tiêu chí xác định nhà đầu tư nước ngoài và cơ chế thủ tục. Các ý kiến xoay quanh mục tiêu chung là vừa phân cấp mạnh mẽ, vừa bảo đảm kiểm soát rủi ro và ngăn ngừa tùy tiện trong thực thi.
Đại biểu Lã Thanh Tân (Hải Phòng) cho rằng, tiêu chí xác định tổ chức kinh tế có vốn nước ngoài tại Điều 20 cần được làm rõ hơn để bảo đảm tính nhất quán quản lý trong các tình huống sở hữu gián tiếp hoặc quyền kiểm soát thực tế vượt tỷ lệ vốn pháp lý. Nếu doanh nghiệp được thành lập trước khi kiểm tra điều kiện đầu tư, sẽ phát sinh nguy cơ che giấu nguồn vốn và gây khó khăn cho việc xác định quyền tiếp cận thị trường, đặc biệt khi doanh nghiệp thực hiện hoạt động liên quan đến đất đai, môi trường và xây dựng. Vì vậy, dự thảo cần quy định rõ quan hệ giữa giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tránh xung đột pháp lý.
Đảm bảo thống nhất khái niệm và nội hàm quy định pháp luật cũng là mối quan tâm của đại biểu Phan Thị Mỹ Dung (Tây Ninh). Theo bà, việc giải thích khái niệm dự án đầu tư tại Khoản 4 Điều 3 vẫn còn hạn chế vì chỉ bao quát dự án trung hạn và dài hạn, trong khi nhiều mô hình FDI hiện nay, như thử nghiệm công nghệ hay kho bãi thương mại ngắn hạn, vẫn là dự án đầu tư nhưng không đáp ứng tiêu chí thời gian. Nếu luật không sửa, việc áp dụng sẽ thiếu nhất quán và có thể phát sinh khiếu nại giữa các địa phương. Bên cạnh đó, bà cũng đề nghị tinh gọn danh mục ngành nghề ưu đãi để tập trung nguồn lực vào lĩnh vực chiến lược như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng mới và công nghệ sinh học.
Nhìn tổng thể, nhóm ý kiến này cho rằng, yêu cầu đặt ra cho Luật Đầu tư sửa đổi là xây dựng cơ chế quản lý nhà đầu tư nước ngoài, thủ tục chấp thuận chủ trương và hệ thống ưu đãi theo hướng nhất quán pháp lý, dựa trên đánh giá rủi ro và bảo đảm phân cấp nhưng không phân tán trách nhiệm.
Các đại biểu Quốc hội thống nhất cho rằng, Luật Đầu tư sửa đổi không chỉ là công cụ kỹ thuật mà là nền tảng định hình mô hình phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới. Khi bảo vệ được thế hệ trẻ trước các sản phẩm độc hại, khi ưu đãi hướng đến hiệu quả và đóng góp thực chất, khi thủ tục được đơn giản hóa nhưng có ràng buộc trách nhiệm, môi trường đầu tư sẽ vừa thông thoáng vừa kỷ luật, vừa cạnh tranh vừa bền vững.
Một đạo luật được thiết kế tốt sẽ không chỉ mở cửa thu hút dòng vốn, mà còn mở đường cho sự phát triển quốc gia dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và sức mạnh nội lực. Những góp ý tại nghị trường ngày 27/11/2025 đang góp phần biến kỳ vọng đó thành khung pháp lý thực thi trong thực tế.












