EVN khẳng định minh bạch, khách hàng có thêm lựa chọn mua điện
Tọa đàm 'Phát triển bền vững ngành điện' sáng 10/9 nêu rõ lộ trình hoàn thiện chính sách giá, minh bạch hoạt động EVN và mở rộng lựa chọn mua điện cho khách hàng.
Ngày 10/9, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm “Phát triển bền vững ngành điện – Những vấn đề đặt ra” nhằm cung cấp thông tin đa chiều về chính sách giá bán điện, nguyên nhân hóa đơn tiền điện tăng, minh bạch các khoản lỗ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và những giải pháp hoàn thiện cơ chế giá điện, bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ông Trịnh Quốc Vũ, Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phát biểu tại tọa đàm, ông Trịnh Quốc Vũ, Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) cho biết, hiện nay EVN không còn là đơn vị bán lẻ điện duy nhất. Ngoài EVN, có 742 doanh nghiệp mua buôn, bán lẻ điện với thị phần 8,59%, trong khi EVN chiếm khoảng 91,4% sản lượng điện thương phẩm. Sắp tới, khi mở rộng thị trường điện bán lẻ cạnh tranh, khách hàng sẽ có nhiều lựa chọn hơn.
Ông Vũ nhấn mạnh, cơ chế mua bán điện trực tiếp theo Nghị định số 80/2024/NĐ-CP của Chính phủ, áp dụng từ tháng 7/2024, đã mở đường để khách hàng lớn mua điện từ nguồn năng lượng tái tạo, góp phần thúc đẩy chuyển dịch xanh và thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050.
Về giá bán lẻ, ông Vũ khẳng định được áp dụng thống nhất trên cả nước; các đơn vị mua buôn – bán lẻ cũng phải tuân thủ khung giá do Chính phủ quy định, song được hưởng giá bán buôn thấp hơn để bù đắp chi phí hạ tầng. Do đó, phản ánh hóa đơn tăng cao không chỉ từ khách hàng của EVN mà còn liên quan tới các đơn vị trung gian.
Ông Vũ cũng phân tích, giá than nhập khẩu năm 2022 tăng 163% so với năm 2021, thậm chí tháng 4/2022 tăng tới 411% (từ 138 USD/tấn lên 705 USD/tấn), trong khi giá khí tăng 27,4%. Dù năm 2023 giá nhiên liệu hạ hơn năm 2022, song vẫn cao hơn nhiều so với năm 2021, khiến chi phí mua điện từ các nguồn sử dụng than, khí, dầu đều tăng mạnh.
Trong khi đó, năm 2022 Việt Nam không điều chỉnh tăng giá điện để hỗ trợ phục hồi kinh tế sau dịch COVID-19, còn năm 2023 chỉ có 2 lần điều chỉnh với mức thấp, khiến EVN lỗ lũy kế khoảng 50.000 tỷ đồng, chưa tính 21.800 tỷ đồng chênh lệch tỷ giá điện phải trả cho các đơn vị phát điện.
Theo ông Vũ, căn cứ Luật Điện lực năm 2024 và Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 11/7/2024 của Bộ Chính trị về bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, EVN cần được hạch toán “tính đúng, tính đủ” chi phí để bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo khả năng đầu tư vào các dự án nguồn điện trọng điểm như điện hạt nhân Ninh Thuận 1, thủy điện tích năng Bác Ái hay nhiệt điện Quảng Trạch.

Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Nguyễn Xuân Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Liên quan đến phản ánh hóa đơn điện tăng cao, ông Nguyễn Xuân Nam, Phó Tổng Giám đốc EVN, cho biết qua rà soát, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ nắng nóng bất thường đầu tháng 8/2025, khi sản lượng tiêu thụ đạt kỷ lục 1,084 tỷ kWh. Có khoảng 3,2 triệu hộ (tương đương hơn 10% tổng số khách hàng sinh hoạt) có sản lượng điện tăng trên 30% so với tháng 7.
“EVN đã yêu cầu các đơn vị điện lực hướng dẫn khách hàng cài ứng dụng theo dõi sản lượng, đồng thời vận hành tổng đài hotline để tiếp nhận và giải đáp kịp thời,” ông Nam nhấn mạnh.
Ông Nam cũng lưu ý, ngoài EVN, các tổ chức mua buôn – bán lẻ điện tại khu đô thị, khu công nghiệp có thể áp dụng mức giá riêng do họ quyết định trên cơ sở giá bán buôn. EVN không kiểm soát phần này. Tuy nhiên, toàn bộ hệ thống đo đếm của EVN hiện đã là công tơ điện tử, truyền số liệu trực tuyến, loại trừ khả năng can thiệp chỉ số thủ công.
Ở góc độ đại biểu Quốc hội, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách cho rằng, EVN đang phải đối mặt với một trong những giai đoạn khó khăn nhất khi phải cân bằng nhiều mục tiêu: duy trì sản xuất, đảm bảo nguồn điện, hiệu quả kinh doanh, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Ông Hiếu chia sẻ, EVN đã có những cải thiện rõ rệt trong dịch vụ điện, đặc biệt là chỉ số tiếp cận điện năng – một trong những tiêu chí được Ngân hàng Thế giới đánh giá cao. Việc lắp công tơ điện tử, áp dụng thanh toán tự động qua ngân hàng thay cho hình thức tiền mặt, hay dịch vụ điện ổn định hơn là những điểm tiến bộ cần ghi nhận.
Tuy vậy, ông Hiếu cho rằng EVN còn nhiều việc có thể làm tốt hơn, như gửi cảnh báo sớm khi sản lượng điện của hộ gia đình tăng đột biến, cung cấp thông tin về mức tiêu thụ điện định kỳ hàng tuần giống như dự báo thời tiết, hay thiết lập một đầu số hotline thống nhất để người dân thuận tiện liên hệ.
“Rõ ràng, thời gian vừa qua có vấn đề trong việc truyền thông, cung cấp thông tin. Đây cũng là cơ hội để EVN cải thiện dịch vụ, bởi sắp tới, khi thị trường bán lẻ điện cạnh tranh được mở rộng, chất lượng dịch vụ sẽ là yếu tố để người dân lựa chọn nhà cung cấp,” ông Hiếu nhấn mạnh.
Các chuyên gia cũng đưa ra góc nhìn so sánh. Ông Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Tăng trưởng xanh, chỉ ra rằng từ châu Âu, Hoa Kỳ tới Singapore, Thái Lan, Malaysia, giá điện bán lẻ đều tăng mạnh trong giai đoạn 2020–2023 do tác động của giá nhiên liệu. Nhiều nước phải can thiệp bằng chính sách trợ giá, song sau đó cho phép ngành điện thu hồi dần bằng cách điều chỉnh giá.
Trong khi đó, ông Lê Việt Cường, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng, nhấn mạnh: chi phí sản xuất điện chiếm 74–82% trong cơ cấu giá điện Việt Nam, trong khi chi phí quản lý, truyền tải, phân phối có xu hướng đi ngang hoặc giảm. Với cơ cấu nguồn điện hiện nay, nhiệt điện than và khí – vốn chiếm gần 60% tổng sản lượng – rất nhạy cảm với biến động giá nhiên liệu thế giới.
“Để đảm bảo an ninh năng lượng, thu hút đầu tư và hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0, giá điện phải phản ánh đúng chi phí, đồng thời bảo đảm khả năng tái đầu tư của doanh nghiệp,” ông Cường nói.