Gần 7 thập kỷ cho cuộc cách mạng trong tư duy sinh đẻ của người Việt
Cầm cuốn album ảnh gia đình, cụ Đỗ Thị May, 90 tuổi, ở Yên Lãng (Hải Phòng) lần giở từng tấm hình. Ký ức không còn trọn vẹn, nhưng cụ vẫn nhớ rất rõ mình sinh 6 người con, tổng cộng 45 cháu dâu, rể và 60 người chắt.
Trong những năm chiến tranh, 3 người con trai của cụ ra trận, may mắn đều trở về. Sáu người con lập gia đình sớm, sinh mỗi nhà 3-5 đứa; cháu chắt lại sinh thêm 2-3 con nữa. Cứ dịp giỗ, lễ Tết, đại gia đình 5 thế hệ lại sum họp, kê tới 10 mâm cỗ tràn từ nhà ra sân.
Nhìn đàn con cháu đông đúc, cụ May mỉm cười: “Thế mà giờ vẫn còn mấy đứa cháu chưa chịu lập gia đình bảo phải hưởng thụ, có đứa thì giục mãi chưa sinh thêm con, cứ kêu ‘đẻ rồi lấy gì nuôi”. Người con trai cả của cụ, năm nay 70 tuổi, tiếp lời: “Thời nay bọn trẻ nghĩ khác rồi! Sống sướng hơn nhưng nhiều nỗi lo hơn. Sinh con cũng phải tính: Đẻ ở đâu, học trường nào, lấy gì cho con tích lũy… Đâu như thời của ông bà và các con, đẻ nhiều là yêu nước, có người làm hay để phụng dưỡng cha mẹ khi về già”.
Suy nghĩ “giới trẻ nghĩ khác rồi” không chỉ là câu chuyện ở gia đình cụ May mà là thực tế ở nhiều gia đình, dòng họ, nhiều vùng miền trên cả nước.
Cuộc cách mạng trong tư duy và hành vi sinh đẻ
Năm 1945, quy mô dân số Việt Nam chỉ hơn 20 triệu người, tuổi thọ trung bình khoảng 38. Chiến tranh, nạn đói, bệnh tật khiến nhiều người tử vong.
Năm 1960, dân số Việt Nam tăng thêm hơn 10 triệu. Trung bình mỗi phụ nữ sinh 6,39 con, nhiều gia đình sinh 10 con, quan niệm phổ biến khi ấy là "trời sinh voi - trời sinh cỏ". Nhiều phụ nữ dưới 30 tuổi đã có 7-8 con, không ít người sinh 20–26 lần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tuổi thọ và năng lực lao động.

Đến năm 2024, mức sinh của Việt Nam chỉ đạt 1,91 con/phụ nữ, mức thấp kỷ lục. Ảnh minh họa: Hoàng Hà
Tháng 12/1961, Nhà nước đưa ra chủ trương "sinh đẻ có hướng dẫn", mở đầu cho công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình – một trong những nước đi sớm nhất ở châu Á. Giai đoạn 1961-1975, chính sách dân số đặt mục tiêu mỗi gia đình có 3 con, đẻ thưa, đẻ muộn.
Tới năm 1975, dân số Việt Nam đạt gần 48 triệu người, mỗi phụ nữ sinh 5,25 con; chất lượng dân số thấp, tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh cao.
Sau thống nhất đất nước, mức sinh rất cao, tốc độ phát triển dân số không cân xứng với tốc độ phát triển kinh tế, chính sách dân số được đẩy mạnh. Nhà nước kêu gọi mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có 1-2 con. Kết quả, mức sinh những năm 1989-1991 giảm về khoảng 3,8 con/phụ nữ.
Thập niên 1990, mạng lưới cộng tác viên dân số thôn, bản “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để tuyên truyền, vận động và cung cấp phương tiện tránh thai. Khẩu hiệu "Mỗi gia đình chỉ sinh từ 1-2 con" thấm tới từng gia đình, cá nhân.
Thời kỳ này, các hương ước, quy ước làng xã hay tiêu chí gia đình/thôn xóm/làng xã văn hóa đều đưa nội dung dân số vào tiêu chí "cứng". Nơi làm tốt được khen thưởng, trường hợp vi phạm có thể bị phạt tiền, thóc hoặc mất danh hiệu thi đua, đảng viên sinh con thứ ba bị xử lý kỷ luật.
Tới năm 2006, Việt Nam lần đầu đạt mức sinh thay thế – trung bình mỗi phụ nữ chỉ sinh 2,09 con. Sau đó, mô hình mỗi gia đình có 2 con trở nên phổ biến, chuẩn mực. Từ năm 2014, ngành Dân số dần chuyển hướng khẩu hiệu vận động, tuyên truyền, sang "Mỗi gia đình nên sinh đủ 2 con".
Trao đổi với VietNamNet, GS.TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và Các vấn đề xã hội (Đại học Kinh tế quốc dân), đánh giá, việc sinh đẻ ở Việt Nam đã chuyển từ bản năng sang hành vi có kế hoạch, trách nhiệm cao hơn; từ thụ động sang chủ động, từ sinh nhiều con chất lượng thấp sang sinh ít con chất lượng cao.
Ông lý giải: Nếu vẫn giữ mức sinh 7 con/phụ nữ như năm 1961, thì đến 2019 dân số Việt Nam đã vượt 192 triệu người - gấp đôi thực tế, dự báo tới 2060 sẽ là 400 triệu người. Chính tư duy thay đổi đã giúp kiểm soát tốc độ tăng dân số và góp phần phát triển bền vững.
Vị chuyên gia kỳ cựu về dân số học cũng chỉ ra, thế hệ bước vào độ tuổi sinh sản cao nhất hiện là những người dưới 35 tuổi. Đây là thế hệ sinh ra sau Đổi mới (năm 1986), trong thời kỳ chính sách kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam rất mạnh. Nhưng họ cũng trưởng thành trong thời đại 4.0, Internet, hội nhập, nhiều thông tin. Họ không còn nhu cầu sinh nhiều con.
GS Cử nhận định một trong những biến đổi xã hội sâu sắc nhất là hành vi sinh sản chuyển từ bản năng sang hành vi tính toán dựa trên chi phí và lợi ích. Chi phí không chỉ là vật chất như sinh hoạt, nhà ở, giáo dục, y tế mà còn là tinh thần. Theo khảo sát của ông, 85% người được hỏi cảm thấy áp lực tâm lý khi sinh con. “Từ khi có bầu đã lo dị tật, sinh rồi lo sức khỏe, học hành, sa vào tệ nạn...”, ông nói. Nỗi lo tinh thần thậm chí còn nặng nề hơn vật chất.
Về mặt lợi ích, ngày nay sinh con không còn đem lại nhiều lợi ích kinh tế như trước. Bố mẹ có lương hưu, người già sống độc lập. Lợi ích tình cảm cũng không nhất thiết đến từ việc có nhiều con. Nhiều gia đình cảm thấy 1-2 con là đủ.
Áp lực khi mức sinh giảm thấp
Từ khi đạt mức sinh thay thế trên toàn quốc, đặc biệt từ sau năm 2012, lãnh đạo Chính phủ, Bộ Y tế và ngành Dân số nhận ra những vấn đề nổi cộm như mức sinh không đồng đều, xuất hiện những vùng mức sinh rất thấp như Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long...
Thống kê cho thấy từ năm 2018, mức sinh có xu hướng giảm sâu dưới mức sinh thay thế. Đến năm 2024, mức sinh của Việt Nam chỉ đạt 1,91 con/phụ nữ, mức thấp kỷ lục. Như vậy, hiện phụ nữ Việt Nam chỉ sinh số con chưa bằng 1/3 so với hơn 6 thập kỷ trước (1,91 so với 6,39). Tỷ lệ tăng dân số cũng giảm từ 3,9% năm 1960 còn 0,8% vào năm 2024.
"Mức sinh sẽ tiếp tục giảm", Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cảnh báo thách thức trong công tác dân số sẽ "tác động đến sự phát triển bền vững của đất nước". Ông Mai Trung Sơn, Cục Dân số, nhấn mạnh mức sinh không phải là câu chuyện “đẻ ít đẻ nhiều” mà việc tái sản xuất dân số còn ảnh hưởng đến sự tồn vong của dân tộc.
Về lâu dài, mức sinh thấp làm suy giảm nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động trẻ, ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Mức sinh thấp hôm nay sẽ trở thành gánh nặng trách nhiệm cho thế hệ những đứa trẻ là "con một" trong tương lai, khi phải gánh vác an sinh cho một xã hội già, siêu già, đồng nghĩa thiếu hụt nguồn lao động.
Theo dự báo của Cục Dân số, với phương án mức sinh thấp, năm 2059, dân số Việt Nam sẽ ghi nhận mức tăng trưởng âm. Mức sinh thấp cũng đẩy nhanh quá trình già hóa và ảnh hưởng tiêu cực đến quy mô dân số.
Giáo sư Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nhiều lần nhấn mạnh rằng muốn mỗi nhà sinh đủ 2 con, điều kiện công việc, chế độ lương, thăng tiến phải khuyến khích lập gia đình và sinh con, đồng thời cần dạy cách làm vợ, làm chồng, làm cha mẹ hạnh phúc. "Cần dạy môn Hạnh phúc học của người Việt Nam ở các bậc học", ông đề xuất.
Bộ trưởng Y tế cho biết, trong Pháp lệnh Dân số sửa đổi năm 2025, quyền tự quyết về sinh sản của cá nhân và cặp vợ chồng được tôn trọng, phù hợp với sức khỏe, điều kiện và hoàn toàn tự nguyện. Dự thảo Luật Dân số cũng được Bộ Tư pháp thẩm định, dự kiến trình Chính phủ để trình Quốc hội có ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025). Trong đó, Bộ đề xuất một số nội dung ưu tiên như ưu đãi về chế độ nghỉ thai sản; hỗ trợ bằng tiền mặt hoặc hiện vật khi sinh con; ưu tiên tiếp cận chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội...