Giá gạo xuất khẩu nhích nhẹ
Giá lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua không có nhiều biến động. Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu nhích nhẹ, nhờ hoạt động mua vào khởi sắc.

Dây chuyền đóng bao gạo xuất khẩu tại tỉnh An Giang. Ảnh: Hồng Đạt - TTXVN
Theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, giá một số loại lúa được thương lái thu mua như: IR 50404 từ 5.500 – 5.700 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; OM 5451 ở mức từ 5.800 – 6.000 đồng/kg, Đài thơm 8 (tươi) và OM 18 (tươi) giao động từ 6.300 – 6.400 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg…
Long An đã thu hoạch gần 63.000/240.000 ha lúa Đông Xuân 2024-2025, năng suất khô ước đạt 5,8 tấn/ha. Ước sản lượng vụ Đông xuân 2024-2025 đạt gần 1,6 triệu tấn. Diện tích lúa Đông xuân 2024-2025 tăng do giá lúa năm 2024 tương đối cao nên bà con nông dân gieo sạ tối đa diện tích hiện có ở các địa phương.
Tuy nhiên, giá thu mua lúa hiện có chiều hướng giảm so với năm 2024. Cụ thể, giá lúa các loại hiện dao động từ 5.400 - 9.400 đồng/kg, giảm từ 500 - 2.300 đồng/kg; lợi nhuận 20-35 triệu đồng/ha, thấp hơn khoảng 7-10 triệu đồng/ha so với vụ Đông Xuân năm 2023-2024.
Giá lúa Đông Xuân sớm tại Hậu Giang đang thấp hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, giống lúa Đài Thơm 8 được cân bán tại ruộng có giá từ 6.300 - 6.500 đồng/kg, giống OM 5451 ở mức 6.000 đồng/kg, nhóm giống lúa ST từ 8.200 - 8.300 đồng/kg. So vụ lúa Đông Xuân cùng kỳ, giá bán lúa đang giảm bình quân từ 1.500 - 1.800 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 18.000 – 20.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 21.500 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo Sóc thường dao động ở mốc 18.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 21.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg…
Gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 8.000 – 8.100 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500 – 9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 7.500 – 7.650 đồng/kg, gạo thành phẩm OM 380 dao động ở 8.800-9.000 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 5.550 – 7.300 đồng/kg. Giá tấm thơm ở mức 7.100 – 7.300 đồng/kg; giá cám khô ở mức 5.550 – 5.700 đồng/kg.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho hay, gạo 5% tấm của Việt Nam tuần qua được chào báo với mức giá là 393 USD/tấn, nhích nhẹ so với giá của tuần trước, chấm dứt chuỗi giảm giá kéo dài 11 tuần qua.
Một thương nhân ở tỉnh An Giang chia sẻ, nhu cầu đang tăng trở lại khi các nhà chế biến và xuất khẩu tăng cường mua gạo từ các hộ nông dân. Tuy nhiên, nguồn cung cũng đang tăng lên vì hiện là giai đoạn thu hoạch vụ Đông Xuân.
Còn trên thị trường gạo châu Á, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ đã giảm xuống mức thấp nhất của 20 tháng trong tuần này, do nhu cầu yếu và lượng hàng tồn kho dồi dào.
Trong tuần qua, gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được chào bán ở mức từ 413 - 420 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ cuối tháng 6/2023. Còn gạo trắng 5% tấm được giao dịch ở mức từ 395 - 405 USD/tấn.
Ông Nitin Gupta, Phó Chủ tịch cấp cao của công ty lương thực Olam Agri India, cho biết nhu cầu đang yếu dần bởi người mua đã có đủ hàng tích trữ, trong bối cảnh các nước xuất khẩu gạo cạnh tranh gay gắt để chiếm thị phần.
Tại Thái Lan, thị trường gạo có phần trầm lắng hơn do người mua trì hoãn mua vào. Hiện giá gạo 5% tấm của Thái Lan đang giao động quanh mức từ 415 - 420 USD/tấn, không thay đổi nhiều so với mức giá 420 USD/tấn của tuần trước.
Theo chia sẻ của một thương nhân khác, mặc dù giá gạo gần như giữ nguyên, nhưng đã xuất hiện áp lực tăng giá do đồng bath mạnh lên.
Trong một diễn biến khác có liên quan, Chính phủ Bangladesh thông báo đã nối lại giao thương trực tiếp với Pakistan lần đầu tiên kể từ khi giành độc lập vào năm 1971. Theo một thỏa thuận chung giữa hai chính phủ, lô hàng xuất khẩu gạo đầu tiên gồm 50.000 tấn gạo đã rời bến cảng Qasim của Pakistan để đến Bangladesh.
Về thị trường nông sản Mỹ, giá các mặt hàng nông sản chính trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) đồng loạt giảm vào phiên giao dịch ngày 28/2; trong đó ngô và lúa mỳ chịu áp lực giảm mạnh nhất.
Trong phiên giao dịch cuối tuần, giá ngô đã giảm 11,5 xu Mỹ, xuống còn 4,695 USD/bushel. Tại diễn đàn Triển vọng Nông nghiệp do Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) tổ chức ngày 28/2, báo cáo ước tính cung – cầu năm 2025-2026 do văn phòng kinh tế trưởng của USDA công bố cho thấy diện tích trồng gieo trồng, sản lượng và lượng tồn kho của ngô Mỹ đều vượt dự báo của giới thương mại, gây áp lực giảm giá đối với nông sản này. Ngoài ra, mối đe dọa về thuế quan của Tổng thống Donald Trump và báo cáo về doanh số xuất khẩu hàng tuần đáng thất vọng cũng là những yếu tố kéo giá ngô xuống.
Tương tự, khép phiên này, giá lúa mỳ giảm 17,25 xu Mỹ, xuống 5,625 USD/bushel. Còn giá đậu tương giảm 4 xu Mỹ, xuống 10,375 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Số liệu về sản lượng lúa mỳ được công bố tại Diễn đàn Triển vọng Nông nghiệp tương đối gần với kỳ vọng, với ước tính hàng tồn kho cuối kỳ năm 2025-2026 nằm trong khoảng 826 triệu bushel, đánh dấu năm thứ tư liên tiếp lượng tồn kho lúa mỳ cuối kỳ của Mỹ tăng lên.
Lượng tồn kho đậu tương cuối kỳ năm 2025-2026 của Mỹ được dự báo là 320 triệu bushel, thấp hơn so với dự đoán của giới thương mại và giảm so với dự báo 380 triệu bushel của niên vụ năm 2024-2025
Về thị trường cà phê thế giới, giá cà phê đồng loạt giảm trên các sàn giao dịch thế giới. Tại sàn giao dịch London, giá cà phê Robusta giao tháng 5/2025 trong phiên ngày 28/2 đạt 5.376 USD/tấn, giảm 34 USD/tấn so với phiên giao dịch trước. Tại sàn New York, giá cà phê Arabica tiếp tục giảm phiên thứ tư liên tiếp, với giá cà phê giao tháng 5/2025 chốt ở mức 373,60 xu Mỹ/pound, giảm 1,60 xu Mỹ/pound (1 pound = 0, 4535 kg).
Đồng USD mạnh hơn đã gây áp lực lên hầu hết các mặt hàng, bao gồm cả cà phê. Trong khi đó, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 2 năm và 10 năm cũng ghi nhận mức tăng. Tình hình này đã khiến các nhà giao dịch dự đoán sự điều chỉnh giảm giá của cà phê là điều có thể xảy ra, đặc biệt là sau mức tăng mạnh trong những tuần đầu tiên của năm 2025, khi thị trường đạt mức cao kỷ lục gần 4,3 USD/pound vào đầu tháng 2/2025.
Tại thị trường trong nước, giá cà phê khu vực Tây Nguyên đồng loạt tăng đều 1.500 đồng/kg, giá cao nhất thu mua tại khu vực này ghi nhận ở mức 130.500 đồng/kg. Cụ thể, giá cà phê ngày 28/2 tại Đắk Lắk có mức 130.500 đồng/kg, giá cà phê tại Lâm Đồng có mức giá 128.500 đồng/kg, giá cà phê tại Gia Lai có mức giá 130.500 đồng/kg và giá cà phê tại Đắk Nông có giá 130.500 đồng/kg.
Nguồn Bnews: https://bnews.vn/gia-gao-xuat-khau-nhich-nhe/364883.html