Già làng Cơ Tu nói chuyện trồng rừng, giữ rừng
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) thành phố Đà Nẵng vừa phối hợp các đơn vị liên quan phát động chương trình 'Rừng ơi, thở đi!' với chủ đề 'Chúng ta có đất - Chung tay trồng rừng. Bên lề hoạt động này, Tiền Phong có cuộc trò chuyện với già làng Bh'riu Bố (thôn A Rớh, xã Tây Giang, thành phố Đà Nẵng) về việc trồng rừng, giữ rừng.
- Thưa già làng, là một người sống và gắn bó với rừng, với cây xanh, ông đánh giá tầm quan trọng của rừng trong đời sống như thế nào?
Chắc hẳn ai cũng thấy cái lợi của rừng, với bà con Cơ Tu chúng tôi, có thể nói cuộc sống nương nhờ vào rừng. Rừng cho chúng tôi cái ăn, cái uống, cái thở, cái thuốc, cho vật liệu dựng nhà. Rừng cũng là lá chắn chống sạt lở, xói mòn, không có cây rừng thì đất đá trôi hết, bà con trên núi sống sao được. Trong kháng chiến, rừng còn chở che cho bộ đội, làm căn cứ hoạt động bí mật.
Rừng cũng mang sức hút mạnh mẽ hấp dẫn người dân, du khách muôn phương.

Già làng Bh’riu Bố. Ảnh: Thanh Hiền.
- Cả đời người sống bên rừng, ông nhận thấy hiện trạng rừng trước và nay khác nhau ra sao?
Trước đây khoảng 50 - 60 năm, rừng rất rậm rạp, trù phú cây nguyên sinh, cây cổ thụ. Đi đâu cũng thấy rừng, vào rừng đúng là đi dưới mái nhà của cây lá. Nhưng càng về sau, rừng bị khai thác ngày một mạnh mẽ. Những cây gỗ cao lớn bị chặt phá, những mảng đồi núi trọc lóc bắt đầu hiện ra. Nhìn những mảng xanh mát mắt bị thay bằng màu bạc của đất rất đau lòng. Có một thực tế là người dân địa phương thường chỉ chặt những cây vừa đủ để dựng nhà, cho dù có muốn hạ cây to cũng không thể vì không có máy móc, phương tiện.
- Việc rừng bị khai phá ảnh hưởng rõ rệt như thế nào, thưa ông?
Thời chúng tôi còn trẻ, không dễ gì thấy cảnh xói mòn, sạt lở, lũ quét. Cây rừng dày đặc đã làm lá chắn cho bà con sống yên ổn cả bốn mùa, thiên tai khắc nghiệt đến mấy cũng không sợ. Mưa gió an tâm trú dưới tán rừng.
Còn bây giờ hầu như năm nào cũng đối mặt với sạt lở, mùa mưa người ta hạn chế đi lên vùng cao vì sợ sạt núi, lũ nước, lũ bùn. Đó cũng là điều tất yếu thôi. Cây không có, lấy gì giữ đất. Đất ngậm no nước thì cứ thế sạt. Hậu quả của việc không có cây xanh, chúng tôi vẫn hay gọi là cơn giận của mẹ rừng quá rõ ràng.
- Từ thực tế đó, việc trồng rừng khẩn thiết hơn bao giờ hết. Theo ông, trồng rừng cần lưu ý những gì?
Chúng ta phải hiểu đúng bản chất tự nhiên, lâu bền của rừng. Trồng rừng phải hướng đến giá trị bền vững. Có những mảng đồi được phủ xanh bởi cây keo, sau ba, bốn năm lại khai thác, thì đó là làm kinh tế trên đất rừng chứ không phải hồi sinh rừng. Một khi đã trồng rừng thì phải nghĩ đến sự vô hạn, trồng cây và mong cây thật lớn, sống thật lâu để đời sau được thụ hưởng giá trị của rừng.
Lim, chò chỉ đỏ, sến, táu, dổi, kiền kiền… là những loại cây được chọn để trồng rừng.

Già làng khuyến khích trồng những cây phù hợp với đất đai, khí hậu của địa phương.
- Vậy với Đà Nẵng, theo ông nên trồng rừng ra sao?
Đây là câu chuyện mà các chuyên gia, đơn vị chức năng nắm và có phương án thích hợp. Tuy nhiên với tư cách là một người sinh ra và lớn lên với rừng, tôi muốn nhấn mạnh yếu tố phù hợp. Không thể cứ ào ào đưa giống cây trồng ở miền Bắc, miền Nam hay thậm chí nước ngoài về trồng trên đất rừng địa phương, mà phải kiểm tra, nghiên cứu kỹ càng. Bởi đất đai, khí hậu khác biệt sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển của cây. Đã có nhiều loại cây mang về trồng, nhưng chỉ được vài ba hôm là chết hết. Việc tìm cây phù hợp với vùng miền ngoài nghiên cứu của các chuyên gia, có thể hỏi người dân bản địa vì hơn ai hết họ dõi theo rừng hàng ngày.
Riêng với khu vực trồng, thì cứ trồng nơi gần, rồi lan tỏa đến nơi xa, càng xa càng tốt. Và trồng rừng phải duy trì chứ không làm theo phong trào.
- Thưa ông, vai trò của người dân bản địa trong việc giám sát, bảo vệ rừng rất lớn, theo ông cần làm gì để phát huy lợi thế này?
Trước đây hầu như nhà nào cũng có vài cái rẫy, làm và thu hoạch xoay vòng rẫy này đến rẫy kia. Nhưng rồi đất rẫy cũng bó hẹp lại, bà con không có nơi canh tác. Sống ở vùng cao, không có đất, không có sinh kế, bà con phải nghĩ tới cái ăn đầu tiên. Vì vậy phải tạo sinh kế, nghề nghiệp hiệu quả cho người dân. Một khi cuộc sống bớt chật vật, người dân không nghĩ tới đất rừng nữa, chuyên tâm bảo vệ mái nhà xanh của mình.
Họ cũng có thể tham gia vào các lực lượng tuần tra, hướng dẫn trong rừng vì đã quá thông thuộc. Những người am hiểu, uy tín hoàn toàn có thể làm người truyền cảm hứng cho việc bảo vệ rừng nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung. Nên khuyến khích điều đó.

Bảo vệ cánh rừng nguyên sinh, bảo vệ cánh rừng đã trồng và tiếp tục trồng thêm rừng là 3 nhiệm vụ cần duy trì để giữ màu xanh cho rừng.
- Chương trình phát động trồng rừng “Chúng ta có đất – Chung tay trồng rừng” kêu gọi người dân, du khách cùng hồi sinh những cánh rừng bản địa, ông đánh giá ra sao về hoạt động này?
Thế hệ chúng ta hôm nay đã thấy rõ bức tranh tổn thương của rừng, nếu không trồng rừng thì con cháu chúng ta ngày sau sẽ tiếp tục chịu hậu quả nặng nề như câu “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Rừng đã bị tàn phá, thiệt hại đến đau lòng, thì giờ phải phủ xanh lại, khắc phục được chừng nào hay chừng đó. Quan trọng là phải làm.
Chương trình kêu gọi người dân và du khách trồng rừng vừa qua là việc làm quá thiết thực, kịp thời vì vừa tái tạo màu xanh trên những mảng đồi trọc, vừa giáo dục ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho mỗi người.
Thực tế hiện nay, chúng ta có 3 việc phải làm: Bảo vệ cánh rừng nguyên sinh, bảo vệ cánh rừng đã trồng và tiếp tục trồng thêm rừng. 3 việc này phải làm đồng thời, duy trì và chặt chẽ mới giữ được rừng. Chứ nếu coi trọng việc này, lơ là việc kia thì việc khôi phục rừng không bao giờ hiệu quả.
- Xin cảm ơn ông!
Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/gia-lang-co-tu-noi-chuyen-trong-rung-giu-rung-post1807027.tpo












