Giá nông sản 24/7: Cà phê quay đầu tăng mạnh, gạo biến động trái chiều

Giá hồ tiêu tiếp đà tăng cao, gạo biến động nhẹ, cao su điều chỉnh trái chiều, giá cà phê quay đầu tăng mạnh trở lại sắp chạm mốc 130.000 đồng/kg.

Giá cà phê quay đầu tăng mạnh

giá cà phê trong nước tăng 1.000 đồng/kg so với ngày hôm qua nằm trong khoảng 127.500-128.200 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 128.100 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Nông là 128.200 đồng/kg.

Giá cà phê quay đầu tăng mạnh

Giá cà phê quay đầu tăng mạnh

Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 128.000 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 127.900 đồng/kg; Tại tỉnh Kon Tum ở mức giá 128.000 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 128.200 đồng/kg.

Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 127.500 đồng/kg.

Tại tỉnh Đắk Lắk tăng nhẹ 400 đồng/kg; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 128.000 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 127.900 đồng/kg.

Theo ghi nhận mới nhất, giá cà phê trên thị trường thế giới quay đầu tăng mạnh. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến Robusta tại London giao tháng 9/2024 được ghi nhận tại mức 4.581 USD/tấn, tăng 1,13%; giá cà phê Arabica giao tháng 9/2024 tại New York ở mức 243,05 UScent/pound sau khi tăng 2,04%.

Trong những ngày đầu tháng 7/2024, giá cà phê Robusta tại thị trường nội địa nhìn chung biến động theo xu hướng tăng. Động lực thúc đẩy giá cà phê tăng mạnh do nguồn cung nội địa khan hiếm và giá cà phê Robusta trên thế giới neo cao.

Theo Bộ NN&PTNT cho biết, sản lượng cà phê của Việt Nam niên vụ 2023/2024 ước giảm 20% so với niên vụ 2022/2023, xuống còn 1,47 triệu tấn, thấp nhất trong 4 năm. Dự báo sản lượng niên vụ 2024/2025 sẽ tiếp tục giảm do yếu tố thời tiết không thuận lợi và tình trạng sâu bệnh khiến diện tích bị thu hẹp dần.

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, tháng 6/2024, Việt Nam xuất khẩu cà phê đạt 70,2 nghìn tấn, trị giá 322,41 triệu USD, giảm 11,5% về lượng và giảm 5,0% về trị giá so với tháng 5/2024, so với tháng 6/2023 giảm 50,4% về lượng và giảm 15,1% về trị giá.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu cà phê đạt 893,82 nghìn tấn, trị giá gần 3,2 tỷ USD, giảm 11,4% về lượng, nhưng tăng 33,2% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.

Dự báo xuất khẩu cà phê trong các tháng của quý III sẽ giảm dần do nguồn cung dần hết. Phải đến tháng 10, khi vụ thu hoạch cà phê niên vụ 2024/2025 bắt đầu, thì nguồn cung cà phê mới tăng trở lại, thông tin từ Bộ Công Thương Việt Nam.

Giá tiêu đà tăng cao

Ghi nhận mới nhất, giá tiêu hôm nay chủ yếu tăng tại các địa phương. Theo đó, hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông cùng tăng 4.000 đồng/kg, đưa giá thu mua lên mốc cao nhất là 150.000 đồng/kg.

Thương lái tại Gia Lai và Đồng Nai đang cùng giao dịch chung mức 149.000 đồng/kg, tăng 4.000 đồng/kg so với ngày hôm qua. Thấp hơn ở mức 148.000 đồng/kg là giá hồ tiêu được ghi nhận tại tỉnh Bình Phước sau khi tăng 3.000 đồng/kg. Ngược lại, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giảm nhẹ 1.000 đồng/kg về mức 144.000 đồng/kg.

Giá tiêu đà tăng cao lên đến 150.000 đồng/kg

Giá tiêu đà tăng cao lên đến 150.000 đồng/kg

Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 7.191 USD/tấn; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 7.125 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA mức 7.500 USD/tấn.

Giá tiêu trắng Muntok 9.157 USD/tấn; giá tiêu trắng Malaysia ASTA ở mức 8.800 USD/tấn.

Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 6.000 USD/tấn với loại 500 g/l; loại 550 g/l mức 6.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 8.800 USD/tấn. IPC tiếp tục giữ nguyên giá tiêu các nước.

Trong báo cáo tuần mới nhất, IPC nhận định, giá tiêu trắng Trung Quốc ghi nhận tăng. Giá tăng mạnh trong 1 tháng qua tại Hải Nam, Trung Quốc do dự kiến sản lượng thấp và đầu cơ tại nội địa.

Theo khảo sát, những năm gần đây, diện tích trồng tiêu tại đảo Hải Nam – Trung Quốc vào khoảng 330.000 mu (đơn vị đo lường của Trung Quốc, 1 mu = 666,7 m2), chiếm hơn 90% tổng diện tích trồng tiêu của nước này.

Mặc dù là vùng sản xuất hồ tiêu chính của Trung Quốc nhưng đảo Hải Nam không phải là khu vực thương mại xuất nhập khẩu chính, hoạt động buôn bán hồ tiêu chủ yếu được thực hiện ở Ngọc Lâm – Quảng Tây và Bạc Châu – An Huy.

Năm nay tại vùng sản xuất hồ tiêu chính của Trung Quốc, tình trạng mất mùa cũng đáng lo ngại, đầu cơ cũng đang găm hàng. Từ đầu năm lượng hồ tiêu xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường này giảm sâu. Theo số liệu, hàng năm Trung Quốc vẫn nhập khoảng 50.000 ngàn tấn hồ tiêu từ Việt Nam.

Theo chuyên gia, có lẽ Trung Quốc và các nhà buôn châu Âu đang chờ thông tin và các đợt ra hàng mới từ vụ thu hoạch ở Indonesia. Nếu vụ mùa ở quốc gia Đông Nam Á này kém thuận lợi, tình trạng sản lượng thấp và đầu cơ tại nội địa tại Trung Quốc kéo dài khiến họ phải tăng cường nhập khẩu mạnh trở lại hồ tiêu Việt Nam. Đây sẽ là động lực tăng trưởng cuối năm của hồ tiêu Việt Nam.

Theo Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (Bộ Công Thương), Indonesia thu hoạch hạt tiêu vào tháng 7 với sản lượng dự kiến tốt ở hầu hết vùng trồng trọng điểm. Những cơn mưa rải rác trong giai đoạn phát triển có lợi cho việc hình thành trái tiêu. Mặc dù ước tính sản lượng tốt, nhưng có thể không ảnh hưởng nhiều đến giá vì các nhà đầu cơ đã cố gắng mua hết nguyên liệu có sẵn.

Giá gạo biến động trái chiều

Giá gạo hôm nay 24-5 tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long xu hướng giảm với gạo nguyên liệu, trong khi đó giá gạo lẻ tại chợ tăng mạnh, riêng giá lúa không biến động.

Với mặt hàng gạo, giá hôm nay giảm nhẹ 50 đồng/kg với gạo nguyên liệu hè thu. Hiện giá gạo nguyên liệu hè thu còn 11.550 - 11.650 đồng/kg; trong khi đó gạo thành phẩm vẫn giữ nguyên giá ở mức 13.850 - 13.950 đồng/kg.

Với phụ phẩm hôm nay đi ngang. Theo đó, giá tấm OM 5451 duy trì ở mức 10.300 - 10.400 đồng/kg; giá cám khô ổn định quanh mức 7.050 - 7.150 đồng/kg.

Ghi nhận tại các địa phương An Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp… hôm nay nguồn gạo về ít, gạo mới chất lượng yếu, nhu cầu hỏi mua chậm; gạo lô đẹp kho chào giá cao hơn. Tuy vậy, thị trường nhìn chung vẫn chậm, chưa có đột phá.

Tại các chợ lẻ, sau nhiều ngày đi ngang, giá một số loại gạo bật tăng từ 500 đến 4.000 đồng/kg. Các loại gạo tăng gồm: Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg, tăng 500 - 1.000 đồng/kg; gạo Nàng Nhen 30.000 đồng/kg, tăng 4.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg.

Các giống gạo còn lại giá ổn định gồm: gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm thái hạt dài 19.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 18.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.000 - 19.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 18.500 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.

Với mặt hàng lúa, hôm nay giá tiếp tục đi ngang. Cụ thể, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, lúa IR 504 ổn định ở mức 7.500 - 7.600 đồng/kg; lúa OM 5451 duy trì quanh mức 7.600 - 7.700 đồng/kg; lúa OM 380 ở mốc 7.500 - 7.600 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 duy trì ở mức 7.800 - 8.000 đồng/kg; Nàng Hoa 9 ở mức 7.600 - 7.700 đồng/kg; lúa Nhật giá 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 7.800 - 8.000 đồng/kg; giá Nếp Long An dao động quanh mức 9.800 - 10.500 đồng/kg; Nàng Nhen khô 20.000 đồng/kg.

Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu hôm nay tiếp tục duy trì ổn định. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo xuất khẩu 5% tấm hiện ở mức 588 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 562USD/tấn; gạo 100% tấm duy trì ổn định ở mức 485 USD/tấn.

Giá cao su điều chỉnh trái chiều

Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 0,28% lên mức 315,1 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 24/7 (giờ Việt Nam).

Giá cao su điều chỉnh trái chiều

Giá cao su điều chỉnh trái chiều

Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,17% ở mức 14.465 Nhân dân tệ/tấn.

Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 5 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu trên 2,92 triệu tấn cao su (HS 4001, 4002, 4003, 4005), với trị giá 4,71 tỷ USD, giảm 15,3% về lượng và giảm 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.

Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Nga và Hàn Quốc là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su cho Trung Quốc. Trừ Thái Lan và Việt Nam, lượng cao su nhập khẩu từ các thị trường còn lại đều tăng so với cùng kỳ năm 2023.

KHÁNH LINH (t/h)

Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/gia-nong-san-24-7-ca-phe-quay-dau-tang-manh-gao-bien-dong-trai-chieu-204240724105402605.htm