Giải cơn khát vốn tư nhân để tăng trưởng bứt phá
Dù nền kinh tế đang bứt tốc, triển vọng phía trước của Việt Nam sẽ được quyết định bởi khả năng thu hẹp 'khoảng trống' vốn khổng lồ, dựa trên cải cách các kênh huy động vốn và xây dựng nền tảng minh bạch, niềm tin trên thị trường.
Việt Nam đang sở hữu một vị thế thuận lợi để bứt phá trong làn sóng tái định hình thương mại toàn cầu. Dù rủi ro thuế quan vẫn hiện hữu, nhưng mức thuế đối ứng cơ sở cho phép Việt Nam duy trì vị thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia và thậm chí thuận lợi hơn Ấn Độ. Quan trọng hơn, sức ép ngày càng gia tăng đối với các tập đoàn đa quốc gia trong việc đa dạng hóa và giảm thiểu rủi ro chuỗi cung ứng đang mở ra một “cơ hội vàng” cho Việt Nam.
Thông điệp từ Diễn đàn kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc vừa qua đã nêu rõ: Việt Nam đã sẵn sàng thoát khỏi vai trò “công xưởng gia công” để từng bước trở thành mắt xích giá trị cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt ở lĩnh vực công nghệ cao. Đây không chỉ là bước đi tất yếu cho tăng trưởng bền vững mà còn là chìa khóa thu hút dòng vốn đầu tư dài hạn.
“Để biến tham vọng thành hiện thực, Việt Nam cần một quy mô vốn khổng lồ chưa từng có. Khu vực tư nhân được kỳ vọng sẽ dẫn dắt làn sóng tăng trưởng tiếp theo thông qua những khoản đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng, công nghệ và nghiên cứu – những trụ cột để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số giai đoạn 2026 - 2030 và tiến tới trở thành quốc gia thu nhập cao giai đoạn 2030–2045”, ông Lê Hồng Khang, Giám đốc phân tích của FiinRatings, nhấn mạnh.

Hệ thống tài chính Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng. Ảnh: Hoàng Anh
Tuy nhiên, theo vị chuyên gia, tham vọng này đang bị kìm hãm bởi chất lượng và cơ cấu vốn của nền kinh tế: chênh lệch đáng kể chi phí vốn giữa các khu vực kinh tế, chi phí vốn cho Chính phủ duy trì ở mức thấp, trong khi khu vực tư nhân phải gánh chi phí cao hơn đáng kể.
“Việc thiếu vắng nguồn vốn dài hạn với chi phí hợp lý đã trở thành nút thắt then chốt, hạn chế tính linh hoạt và khả năng hiện thực hóa những khoản đầu tư thiết yếu để bảo đảm tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong tương lai”, ông Khang nhận định.
“Cẩm nang” huy động vốn đã... cũ
Dữ liệu từ FiinRatings cho thấy, các doanh nghiệp niêm yết có kế hoạch huy động lên tới 199 nghìn tỷ đồng trong năm 2025 và thực tế đã huy động 56,2 nghìn tỷ đồng trong bảy tháng đầu năm.
Những tháng còn lại của năm, các doanh nghiệp có kế hoạch huy động gần 143 nghìn tỷ đồng qua thị trường chứng khoán; trong đó, các ngân hàng thương mại đang là nhóm ngành có kế hoạch huy động vốn lớn nhất với tổng giá trị 62 nghìn tỷ đồng.
Trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, nhu cầu huy động cũng rất lớn bởi thực tế các ngân hàng thương mại đã huy động khoảng 200 nghìn tỷ đồng trong bảy tháng đầu năm và dự kiến sẽ huy động 112 nghìn tỷ đồng cho các tháng còn lại của năm.
Những con số trên đã khẳng định không chỉ nhu cầu vốn lớn mà thực tế các doanh nghiệp Việt Nam đang đẩy mạnh triển khai các hoạt động huy động vốn cụ thể cả trên thị trường chứng khoán và trên thị trường vốn nợ Việt Nam.
“Trên thực tế, hệ thống tài chính Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng, trong khi cả thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp đều thiếu chiều sâu và chưa đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng lớn của nền kinh tế”, ông Lê Hồng Khang, Giám đốc phân tích của FiinRatings, nhận định.
Theo chuyên gia này, để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, việc đa dạng hóa và phát triển các kênh huy động vốn song song với thị trường tín dụng là yêu cầu cấp thiết. Cách tiếp cận này sẽ góp phần giảm chi phí vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân, đồng thời hạn chế sự phụ thuộc quá mức vào nợ ngắn hạn.
“Giai đoạn thuần phụ thuộc vào tài sản thế chấp để huy động vốn và tư duy ngắn hạn đã không còn phù hợp. Chìa khóa để khai mở dòng vốn trong kỷ nguyên mới chính là niềm tin, điều được gây dựng dựa trên minh bạch và sự tương tác chủ động”, ông Khang chia sẻ.

Doanh nghiệp Việt Nam vay với lãi suất cao hơn. Nguồn: S&P Global Ratings
Trong đó, các tổ chức phát hành cần đầu tư vào việc tạo dựng một hồ sơ tín dụng ‘sẵn sàng cho thị trường vốn’, với hệ thống báo cáo cung cấp thông tin chất lượng cao và tầm nhìn chiến lược dài hạn rõ ràng. Đồng thời, chuyển từ quan hệ giao dịch đơn thuần sang đối thoại đa chiều để hình thành quan hệ đối tác bền vững.
Đối với nhà đầu tư, ‘chìa khóa’ để xuống tiền không chỉ nhìn vào tài sản bảo đảm, mà còn phải đánh giá chất lượng quản trị, mức độ tin cậy của chiến lược kinh doanh và năng lực tạo dòng tiền dài hạn của doanh nghiệp.
Tầm nhìn xa hơn cho thị trường vốn
Ông Dominic Scriven, Chủ tịch điều hành Dragon Capital Group - đơn vị quản lý quỹ hàng đầu Việt Nam với quy mô khoảng 6 tỷ USD, nhìn nhận, Việt Nam đặt mục tiêu quy mô GDP sẽ khoảng 800 tỷ USD vào năm 2030 trên con đường trở thành nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, nếu dựa trên cơ cấu đầu tư của khu vực tư nhân hiện tại ở mức khoảng 40%, tức là lúc đó tổng quy mô đầu tư của khu vực này sẽ khoảng 320 tỷ USD/năm, con số này rõ ràng là quá sức của hệ thống ngân hàng thương mại.
Vì vậy, theo chuyên gia này, việc khai mở thị trường vốn nội địa và thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trong đó có việc qua thị trường nợ và trái phiếu doanh nghiệp là điều tất yếu phải triển khai.

Ông Dominic Scriven, Chủ tịch điều hành Dragon Capital Group. Ảnh: Quốc Hải
Ủng hộ quan điểm này, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch điều hành FiinGroup và FiinRatings cho hay, nguồn vốn FDI và tín dụng ngân hàng không thể đáp ứng nổi quy mô trên nếu cần có tầm nhìn xa hơn.
Ông Thuân lý giải, quy mô FDI hiện nay khoảng 30 tỷ USD mỗi năm và ngành ngân hàng hiệ̣n có quy mô dư nợ tín dụng toàn hệ thống khoảng 17,6 triệu tỷ đồng và với cơ cấu cấp tín dụng trung – dài hạn khoảng 40% thì rõ ràng không thể cấp đủ nguồn cho vốn đầu tư phát triển của lĩnh vực tư nhân nói chung và của doanh nghiệp nói riêng.
Riêng về ngành ngân hàng, khả năng cấp tín dụng, đặc biệt là tín dụng đầu tư trung và dài hạn sẽ còn phụ thuộc vào khả năng cải thiện hệ số an toàn vốn của các ngân hàng thương mại, vốn hiện nay ở mức còn khá khiêm tốn, chỉ khoảng 12,5%.
“Với tỷ lệ này thì các ngân hàng thương mại sẽ khó có đủ bộ đệm vốn để tăng trưởng tín dụng trung - dài hạn cao trong các năm tới đây”, ông Thuân đánh giá.
“Mở khóa” thị trường vốn cách nào?
Từ kinh nghiệm vận hành quỹ nợ của Dragon Capital Group, ông Dominic Scriven đánh giá, thị trường nợ Việt Nam đang trong quá trình phát triển, nhưng đang thiếu cơ sở hàng hóa, cả về số lượng và chất lượng, để cho các quỹ nợ có thể hoạt động, trong đó không chỉ trái phiếu doanh nghiệp mà cả trái phiếu chính phủ và các sản phẩm tiền tệ.
Về chất lượng, hiện nay mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể về minh bạch thông tin nhưng Việt Nam vẫn còn chặng đường dài để có thể hoàn thiện, trong đó có việc tăng độ phủ của xếp hạng tín nhiệm và sự hình thành của các sản phẩm trung gian như cơ chế bảo lãnh trái phiếu.
“Việc thiếu vắng nhà đầu tư quốc tế tham gia vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng do một yếu tố quan trọng khác đó là: mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam còn thấp, hiện là BB+ theo S&P. Điều này cũng tương tự như nỗ lực chúng ta đang thực hiện cho thị trường cổ phiếu là nâng hạng lên mới nổi bởi nếu không thì các quỹ tương hỗ, quỹ đầu tư đa kênh của các chính phủ sẽ chưa thể phân bổ tài sản của họ vào thị trường vốn nợ của Việt Nam”, ông Dominic góp ý.
Ông cũng nhấn mạnh bốn yếu tố quan trọng nhất khi Dragon Capital Group xem xét đầu tư, đó là: thanh khoản, quản trị rủi ro, hiệu quả đầu tư và uy tín.
Theo ông, các doanh nghiệp Việt muốn tự nâng cao tín nhiệm thì phải tập trung vào minh bạch thông tin và nâng cao chất lượng quản trị. Song song đó, doanh nghiệp cũng nên đảm bảo chất lượng trái phiếu, đặc biệt tập trung vào các dự án dài hạn, tuyệt đối tránh các trường hợp không hoàn thành đúng cam kết hoặc “gãy gánh giữa đường".
Ông Khang nhấn mạnh đến một yêu cầu cấp bách là cải cách toàn diện thị trường vốn bằng một chiến lược đồng bộ: mở rộng tệp nhà đầu tư tổ chức; đa dạng hóa sản phẩm theo kỳ hạn và loại hình, đặc biệt là trái phiếu hạ tầng; áp dụng khung đầu tư, phân bổ vốn dựa trên rủi ro; và trên hết, xây dựng hành lang pháp lý minh bạch, ổn định và có khả năng dự báo.
Theo ông, mục tiêu cuối cùng là kiến tạo một cơ chế huy động vốn hiệu quả với chi phí hợp lý, trong đó thị trường trái phiếu doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, nhằm bảo đảm dòng vốn dài hạn và bền vững, qua đó duy trì động lực tăng trưởng của Việt Nam trong thập kỷ tới.
Ngoài trái phiếu, ngành quản lý quỹ có dư địa rất lớn cần phải tập trung khai thác. Ông Thuân cho hay, ngành quản lý quỹ của Việt Nam thì hiện quy mô khoảng 28 tỷ USD, tức chưa đến 6% GDP của Việt Nam.
Theo ông, tầm nhìn đến 2030, quy mô ngành này tăng lên không cần chiếm 20-25% GDP như một số nước trong khu vực, mà chỉ cần ở mức 15% thì lúc đó quy mô của ngành sẽ tầm 120 tỷ USD, tức là gấp 4,3 lần quy mô hiện nay.
“Đây rõ ràng là một viễn cảnh tươi sáng nhưng nếu chúng ta không sớm có các chính sách về khung quản lý rủi ro chung và cho mỗi loại hình như cải thiện rào cản phân bổ đầu tư; xem xét việc cấp phép mới… thì Việt Nam sẽ khó có thể khai thông được nguồn vốn trong nước và quốc tế thông qua loại hình đầu tư này”, ông Thuân nhấn mạnh.