Giải đáp một số vấn đề vướng mắc trong xét xử về hình sự, tố tụng hình sự

Hỏi: Tôi được biết, Tòa án Nhân dân (TAND) tối cao vừa ban hành công văn giải đáp một số vướng mắc trong xét xử, trong đó có liên quan đến hình sự, tổ tụng hình sự. Xin quý báo cho biết một số nội dung? (Trần Minh Anh, quận Ba Đình, Hà Nội)

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Trả lời: Về câu hỏi của quý bạn đọc, xin trả lời như sau:

Ngày 10/9/2024, Tòa án Nhân dân tối cao ban hành Công văn số 163/TANDTC-PC về giải đáp một số vướng mắc trong xét xử, trong đó có liên quan đến hình sự, tổ tụng hình sự. Theo đó, TAND tối cao giải đáp 13 vấn đề vướng mắc trong xét xử về hình sự, tố tụng hình sự. Đơn cử, giải đáp vướng mắc liên quan đến tội vi phạm chế độ một vợ một chồng như sau:

Lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự:

1. Điều 63 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên, trong đó phải có điều kiện “Bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”. Trường hợp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trong bản án có tuyên cha mẹ bị cáo phải bồi thường cho bị hại. Tuy nhiên, Điều 105 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi không quy định về điều kiện phải bồi thường, nếu cha mẹ của phạm nhân không thực hiện việc bồi thường thì phạm nhân là người dưới 18 tuổi có được giảm mức hình phạt đã tuyên không (các điều kiện khác đều đảm bảo)?

Theo quy định tại Điều 105 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi thì không quy định điều kiện bồi thường là một trong các điều kiện được xét giảm. Do đó, việc cha mẹ của người dưới 18 tuổi không thực hiện việc bồi thường thì họ vẫn được giảm mức hình phạt đã tuyên.

2. Nguyễn Văn A có hành vi phá két sắt nhằm mục đích trộm cắp tài sản và đã lấy được số tiền 5.000.000 đồng; két sắt do Nguyễn Văn A hủy hoại có giá trị 10.000.000 đồng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A chỉ phạm 01 tội là “Tội trộm cắp tài sản” hay phạm 02 tội là “Trộm cắp tài sản”, “Hủy hoại tài sản”.

Mặc dù Nguyễn Văn A chỉ có động cơ, mục đích là trộm cắp nhưng buộc Nguyễn Văn A phải nhận thức hành vi phá két sắt là hủy hoại tài sản của người khác. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn A cấu thành 02 tội là tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 và tội “Hủy hoại tài sản” quy định tại Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

3. Quy định “làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn” tại điểm a khoản 1 Điều 182 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được hiểu như thế nào?

Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 182 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được hiểu là người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ mà dẫn đến hậu quả quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên ly hôn.

Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án”. Theo đó, quan hệ vợ, chồng chỉ kết thúc khi có bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án.

4. Nguyễn Văn A là nhân viên của cửa hàng điện thoại di động MT do ông Trần Thanh B làm chủ, cửa hàng MT được đăng ký kinh doanh là hộ kinh doanh. Trong quá trình làm việc tại cửa hàng, Nguyễn Văn A được giao nhiệm vụ thu tiền bán thẻ điện thoại, máy điện thoại và có trách nhiệm trực tiếp quản lý tiền thu được và nộp lại cho chủ cửa hàng. Nguyễn Văn A đã lợi dụng nhiệm vụ được giao, sau khi thu tiền của khách hàng, Nguyễn Văn A không nộp về cho cửa hàng mà chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng. Hành vi của Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hay tội “Tham ô tài sản”?

Theo khoản 6 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người có chức vụ, quyền hạn trong các DN, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều này. Theo quy định tại khoản 1 Điều 79 của Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 4/1/2021 của Chính phủ về đăng ký DN thì “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ...”.

Theo quy định tại khoản 10 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì “DN là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Như vậy, hộ kinh doanh không phải là DN theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Do đó, hành vi nêu trên của Nguyễn Văn A cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)…

LS. Nguyễn Trung Tiệp, Đoàn Luật sư TP Hà Nội

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/giai-dap-mot-so-van-de-vuong-mac-trong-xet-xu-ve-hinh-su-to-tung-hinh-su-396175.html