Các chi tiết về kiện được mệnh danh là "cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba lần thứ hai" nổ ra ở Đông Âu vào năm 1983 vừa được biết đến.
Trang The Drive cho biết, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố một tài liệu mật về cuộc khủng hoảng năm 1983, vụ việc gần như dẫn đến chiến tranh hạt nhân toàn diện giữa hai siêu cường.
Khi đó Moskva cho rằng do các hành động bất thường của NATO gần biên giới Đông Đức, Liên Xô đã đưa gần 100 máy bay trang bị vũ khí hạt nhân vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
Mọi việc bắt nguồn từ cuộc tập trận Able Archer bắt đầu vào ngày 2/11 tại châu Âu, theo kịch bản, Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương - NATO sẽ thực hành một cuộc tấn công hạt nhân vào các nước thuộc Khối Warszawa.
Sự tham gia của Thủ tướng Anh Margaret Thatcher và Thủ tướng Tây Đức Helmut Kohl đã bổ sung tính hiện thực cho "trò chơi chiến tranh" này.
Tình hình quốc tế vào thời điểm đó vốn đã căng thẳng, vì vậy giới lãnh đạo Liên Xô cho rằng, dưới chiêu bài tập trận, NATO đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công thực sự.
Theo tình báo phương Tây, để đáp trả, các sở chỉ huy Liên Xô trên khắp Đông Đức đã được biên chế với những nhóm tăng cường. Vào tối 2/11, khi có tín hiệu báo động, Tập đoàn quân không quân Xô Viết số 16 bước vào tình trạng báo động cao.
Biên chế của đơn vị bao gồm các sư đoàn máy bay tiêm kích - ném bom, chủ yếu là MiG-27, Su-17 và Su-24. Họ được giao nhiệm vụ thực hiện cuộc tấn công hạt nhân nhằm vào các sân bay, căn cứ tên lửa và mục tiêu quan trọng khác của NATO.
Không chỉ có đơn vị nói trên, theo lệnh của Tư lệnh Không quân Liên Xô - Nguyên soái Pavel Kutakhov, Tập đoàn Không quân Xô Viết số 4 đóng tại Ba Lan cũng được đặt trong tình trạng báo động.
Thông thường mỗi trung đoàn Không quân Liên Xô đóng tại Tây Âu có ba phi đội, một trong số đó chuyên làm nhiệm vụ tấn công hạt nhân.
Tài liệu được giải mật chỉ ra rằng những máy bay trang bị vũ khí hạt nhân đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu trong 30 phút, các phi công được hướng dẫn "tiêu diệt các mục tiêu của đối phương trên tuyến đầu."
Theo tình báo Mỹ, khi đó Liên Xô có thể huy động tổng cộng 8 phi đội được trang bị bom hạt nhân, con số vào khoảng 96 máy bay.
Một thực tế ít được biết đến đó là trong bộ phận chiến thuật của Không quân Liên Xô, hầu như tất cả các máy bay chiến đấu đều có tùy chọn thiết kế để mang bom hạt nhân rơi tự do. Tuy nhiên cho tới ngày nay vẫn có rất ít thông tin về loại vũ khí này.
Tính đến năm 1983, MiG-23, MiG-27, MiG-29, Su-17 và Su-24 có thể mang bom hạt nhân chiến thuật tiêu chuẩn RN-40 và RN-41. Trong đó RN-40 có đương lượng nổ xấp xỉ 30 kT - gấp đôi so với quả bom Little Boy mà Mỹ ném xuống Hiroshima.
Tài liệu được công bố cũng bao gồm lời của Trung tướng Leonard H. Perruts, người khi đó là Trợ lý Tham mưu trưởng Tình báo của lực lượng Không quân Mỹ tại châu Âu (USAFE), có trụ sở chính tại căn cứ Ramstein thuộc Tây Đức.
Tướng Perruts nhớ lại đã liên lạc với cấp trên của mình trong lúc "hoảng loạn", bao gồm cả Tổng tư lệnh USAFE - Tướng Billy Minter.
Chỉ huy đã hỏi Tướng Perruts rằng ông đánh giá tình hình ở Đông Đức như thế nào thì nhận được câu trả lời: “Không có đủ bằng chứng để biện minh cho việc tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu thực sự”.
Nhưng Tướng Perruts sau đó thừa nhận rằng khi có nhiều thông tin về tình trạng của quân đội Liên Xô, ông ngày càng lo lắng: "Nếu biết những gì tôi học được sau này, tôi không chắc mình sẽ đưa ra lời khuyên gì".
Tướng Perruts tin rằng mình đã đưa ra lời kêu gọi đúng đắn và không khuyến nghị NATO leo thang. Tuy nhiên chỉ sau cuộc tập trận, ông ta mới bắt đầu hiểu tình hình nghiêm trọng như thế nào.
Tóm lại, các sự kiện của năm 1983 tiếp tục đóng vai trò như một lời nhắc nhở tỉnh táo về những nguy cơ của việc cân bằng bên bờ vực chiến tranh hạt nhân.
Việt Dũng