Giải Nobel Kinh tế 2022 và các giải Nobel Kinh tế trong 10 năm gần đây

Các giải Nobel Kinh tế trong 10 năm gần đây đã trao giải cho các nghiên cứu kinh tế và các nhóm tác giả nào?

Giải Nobel Kinh tế 2022 vinh danh ba nhà kinh tế người Mỹ. Ảnh: Infographics.vn

Giải Nobel Kinh tế 2022 vinh danh ba nhà kinh tế người Mỹ. Ảnh: Infographics.vn

Giải Nobel Kinh tế 2022 và các giải Nobel Kinh tế trong 10 năm gần đây

Vào 16h50 chiều 10/10 (giờ Việt Nam), Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã công bố giải Nobel Kinh tế năm 2022 thuộc về bộ 3 nhà kinh tế gồm Ben S. Bernanke thuộc Viện Brookings, Washington DC (Mỹ), Douglas W. Diamond thuộc Đại học Chicago (Mỹ), và Philip H. Dybvig thuộc Đại học Washington (Mỹ) nhờ nghiên cứu về ngân hàng và các cuộc khủng hoảng tài chính. Giải thưởng này đã khép lại Tuần lễ Noel của năm 2022.

* Tôn vinh 3 nhà kinh tế học người Mỹ nghiên cứu về các ngân hàng và khủng hoảng tài chính

Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển cho biết, công trình nghiên cứu của 3 chuyên gia kinh tế hàng đầu này giúp nâng cao nhận thức về vai trò của các ngân hàng trong nền kinh tế, đặc biệt là trong các cuộc khủng hoảng tài chính.

Nghiên cứu giải đáp câu hỏi quan trọng là tại sao việc đảm bảo các ngân hàng không bị phá sản lại có ý nghĩa sống còn. Nghiên cứu về ngân hàng hiện đại này làm rõ tại sao có các ngân hàng, làm thế nào để giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng và tại sao các ngân hàng sụp đổ làm trầm trọng thêm các cuộc khủng hoảng tài chính.

Ba nhà nghiên cứu đoạt giải Nobel kinh tế năm nay đặt nền tảng cho nghiên cứu này từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước. Các phân tích của họ có tầm quan trọng thực tế to lớn trong việc điều tiết thị trường tài chính và đối phó với các cuộc khủng hoảng tài chính.

Theo nghiên cứu, để nền kinh tế vận hành, các khoản tiết kiệm phải được chuyển sang đầu tư. Tuy nhiên, có một mâu thuẫn ở đây là những người tiết kiệm muốn huy động tiền ngay trong trường hợp cần chi tiêu cấp bách, trong khi các doanh nghiệp và chủ bất động sản cần được đảm bảo họ sẽ không bị buộc phải trả nợ trước hạn. Hai ông Diamond và Dybvig chỉ ra cách các ngân hàng đưa ra giải pháp tối ưu cho vấn đề này. Bằng cách đóng vai trò trung gian nhận tiền gửi của nhiều người tiết kiệm, các ngân hàng có thể cho phép người gửi tiền tiếp cận tiền của họ khi họ muốn, đồng thời cung cấp các khoản vay dài hạn cho người đi vay.

Ngoài ra, phân tích của các nhà kinh tế học cũng cho thấy sự kết hợp của hai hoạt động này khiến hoạt động của các ngân hàng dễ bị ảnh hưởng của những tin đồn thất thiệt. Nếu một số lượng lớn người gửi tiết kiệm cùng lúc đến ngân hàng để rút tiền khi có tin đồn, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh khoản và sụp đổ. Tuy nhiên, những nguy cơ này có thể được ngăn chặn với việc chính phủ cung cấp bảo hiểm tiền gửi và hoạt động như một thể chế cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng.

Ông Diamond đã chứng minh cách thức các ngân hàng thực hiện một chức năng xã hội quan trọng khác. Là trung gian giữa người gửi tiền tiết kiệm và người đi vay, ngân hàng phù hợp hơn để đánh giá mức độ tín nhiệm của người đi vay và đảm bảo rằng các khoản vay được sử dụng cho các khoản đầu tư sinh lời.

Trong khi đó, ông Ben Bernanke đã phân tích về cuộc Đại suy thoái thập niên 30 của thế kỷ trước, được đánh giá là cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại. Theo ông, hoạt động của các ngân hàng là yếu tố quyết định khiến cuộc khủng hoảng trở nên sâu sắc và kéo dài. Khi các ngân hàng sụp đổ, các thông tin có giá trị về người đi vay bị mất và không thể nhanh chóng phục hồi. Do đó, khả năng của xã hội để chuyển tiền tiết kiệm thành những khoản đầu tư hiệu quả bị giảm sút nghiêm trọng.

Ông Ben S. Bernanke sinh tại Augusta, bang Georgia (Mỹ). Ông tốt nghiệp tiến sĩ năm 1979 tại Học viện Công nghệ Massachusetts, Đại học Cambridge, và từng đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) giai đoạn 2006-2014. Nhà kinh tế học Douglas W. Diamond hiện là Giáo sư chuyên ngành tài chính của Đại học Chicago. Trong khi đó, tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Yale vào năm 1979, nhà kinh tế học Philip H. Dybvig hiện là Giáo sư chuyên ngành Ngân hàng và Tài chính thuộc Đại học Washington ở St. Louis.

Có tên gọi đầy đủ là Giải thưởng của ngân hàng Sveriges Riksbank dành cho Khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel, giải Nobel Kinh tế không nằm trong hệ thống 5 giải Nobel được lập theo di nguyện của nhà khoa học người Thụy Điển này vào năm 1895. Đây là giải thưởng do Ngân hàng Trung ương Thụy Điển sáng lập và tài trợ bắt đầu từ năm 1968 để kỷ niệm 300 năm thành lập ngân hàng này và cũng để tưởng nhớ Alfred Nobel.

Từ năm 1969 tới năm 2021, đã có 53 giải Nobel Kinh tế được trao. Người trẻ tuổi nhất từng đoạt giải thưởng danh giá này là bà Esther Duflo (khi đó 46 tuổi), trong khi người cao tuổi nhất từng được vinh danh là nhà kinh tế học Leonid Hurwicz (ở tuổi 90).

* Các giải Nobel Kinh tế trong 10 năm gần đây

- Năm 2021: Giải Nobel Kinh tế năm 2021 thuộc về ba nhà kinh tế học người Mỹ là David Card, Joshua D. Angrist và Guido W. Imbens về những đóng góp thực nghiệm cho kinh tế lao động và những đóng góp về phương pháp luận trong việc phân tích các mối quan hệ nhân quả trong lĩnh vực kinh tế. Công trình nghiên cứu này đã cách mạng hóa nghiên cứu thực tiễn trong khoa học xã hội và cải thiện đáng kể tiềm năng của giới nghiên cứu trong việc giải mã các vấn đề quan trọng đối với tất cả chúng ta.

- Năm 2020: Giải Nobel Kinh tế 2020 thuộc về hai nhà kinh tế Mỹ Paul Robert Milgrom và Robert Winson nhờ công trình nghiên cứu về lý thuyết đấu giá và sáng tạo ra các hình thức đấu giá mới. Nghiên cứu của họ đã mang lại lợi ích cho người bán, người mua và những người nộp thuế trên khắp thế giới.

- Năm 2019: Giải Nobel Kinh tế 2019 được trao cho ba nhà kinh tế học gồm Esther Duflo (người Mỹ gốc Pháp), Abhijit Banerjee (người Mỹ gốc Ấn Độ), và Michael Kremer (người Mỹ) nhờ cách tiếp cận thử nghiệm trong vấn đề xóa đói giảm nghèo toàn cầu. Nghiên cứu của họ được đánh giá là giúp cải thiện hơn nữa cuộc sống của những người nghèo trên hành tinh. Ba nhà khoa học này đã thực hiện các nghiên cứu ở nhiều quốc gia, bao gồm ở Ấn Độ và hơn 5 triệu trẻ em Ấn Độ đã được hưởng lợi từ các nghiên cứu của họ.

- Năm 2018: Giải Nobel Kinh tế 2018 được trao cho hai nhà kinh tế học người Mỹ William D.Nordhaus và và Paul M. Romer với việc tạo ra phương thức giải quyết một số vấn đề cơ bản và cấp thiếp nhất trong thời đại hiện nay, như tăng trưởng bền vững lâu dài trong nền kinh tế toàn cầu và sự thịnh vượng của dân số thế giới. Những nghiên cứu của hai nhà kinh tế này đã góp phần mở rộng phạm vi phân tích kinh tế bằng cách xây dựng các mô hình giúp giải thích cách thức nền kinh tế thị trường tương tác với thiên nhiên và tri thức, qua đó giúp chúng ta hiểu thấu về nguyên nhân và hệ quả của sự đổi mới công nghệ và biến đổi khí hậu.

- Năm 2017: Nhà kinh tế học người Mỹ Richard H. Thaler đã vinh dự nhận giải Nobel Kinh tế 2017, vì những đóng góp của ông cho ngành khoa học kinh tế. Giáo sư Thaler đã mang các giả định thực tế trong tâm lý học vào việc phân tích cách đưa ra các quyết định kinh tế. Bằng cách khám phá hệ quả của việc tư duy có hạn chế, các tham chiếu xã hội và việc thiếu tự chủ của các cá nhân, ông Thaler đã chứng minh các thói quen tính cách của con người có thể ảnh hưởng một cách có hệ thống đến các quyết định của họ, cũng như kết quả của thị trường.

- Năm 2016: Hai nhà kinh tế Oliver Hart (người Mỹ gốc Anh) và Bengt Holmstrom (người Phần Lan) cùng trở thành đồng chủ nhân giải Nobel Kinh tế 2016 nhờ những đóng góp cho “Lý thuyết Hợp đồng", đặt nền tảng cho việc kiến tạo các chính sách và học viện trong nhiều lĩnh vực từ luật phá sản cho tới các thể chế chính trị. Theo Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, nghiên cứu của hai nhà khoa học có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thấu hiểu nền kinh tế hiện đại do hợp đồng là khái niệm quen thuộc với tất cả mọi người, như hợp đồng bảo hiểm, lao động, quyền sở hữu trí tuệ…

- Năm 2015: Giải Nobel Kinh tế 2015 thuộc về Giáo sư Kinh tế mang hai quốc tịch Anh và Mỹ Angus Deaton, với các công trình nghiên cứu, phân tích về tiêu dùng của cá nhân, đói nghèo và phúc lợi xã hội. Bằng việc gắn kết các lựa chọn cá nhân với tổng thu nhập, nghiên cứu của nhà kinh tế Deaton đã giúp thay đổi các lĩnh vực của kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô và phát triển kinh tế. Angus Deaton còn được vinh danh bởi các kết quả của những nghiên cứu đó còn có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhánh nghiên cứu của khoa học kinh tế như kinh tế học vi mô, kinh tế học vĩ mô và kinh tế phát triển.

- Năm 2014: Giáo sư Kinh tế người Pháp Jean Tirole của trường Đại học Toulouse Capitole đã đoạt giải Nobel Kinh tế 2014, vì những nghiên cứu về sức mạnh và quy luật thị trường cùng những cách thức quản lý điều tiết doanh nghiệp để đối phó với sự chi phối từ các tập đoàn lớn. Jean Tirole được đánh giá là một trong những nhà kinh tế học có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Ông đã có nhiều nghiên cứu quan trọng trong một số lĩnh vực, trong đó được đánh giá cao nhất là cách hiểu và quản lý các ngành công nghiệp bị thống trị bởi số ít các công ty.

- Năm 2013: Bộ ba Giáo sư người Mỹ gồm Lars Peter Hansen, Eugene Fama và Robert Shiller cùng trở thành đồng chủ nhân giải thưởng Nobel Kinh tế 2013, với công trình “phân tích thực tế về giá cả tài sản”. Công trình nghiên cứu mang tính đột phá về các thị trường tài sản trên đã đặt nền tảng cho sự hiểu biết hiện tại về giá tài sản, từ đó làm sâu sắc hơn sự hiểu biết về xu hướng và sự chuyển động của giá tài sản, chẳng hạn như cổ phiếu và trái phiếu.

- Năm 2012: Hai chuyên gia kinh tế người Mỹ là Alvin Roth và Lloyd S. Shapley đã trở thành đồng chủ nhân Giải Nobel Kinh tế năm 2012 cho công trình nghiên cứu "Thuyết phân phối ổn định và thực tiễn về tạo lập thị trường", qua đó phối hợp hài hòa các tác nhân kinh tế khác nhau, ví như học sinh với trường học hay thậm chí là người hiến nội tạng với bệnh nhân được cấy ghép. Họ làm việc hoàn toàn độc lập với nhau, song sự phối hợp kết quả nghiên cứu của họ đã tạo ra giá trị thực tiễn./.

An An (tổng hợp)

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/giai-nobel-kinh-te-2022-va-cac-giai-nobel-kinh-te-trong-10-nam-gan-day/261550.html