Giải pháp mới cho khối kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng nêu mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao... Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân cho giai đoạn 2026-2030 từ 10% trở lên...
Đây là những mục tiêu rất tham vọng nhưng hoàn toàn đúng đắn, hợp với bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và trước khi dân số Việt Nam bị già hóa, chúng ta đang có cơ hội vàng cho tăng trưởng. Để đạt được mục tiêu đó, phải vực dậy và thúc đẩy tăng trưởng đối với cả hai khối: Kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước vì hai khối kinh tế này đang đóng góp 72% vào đầu tư toàn xã hội.
Kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước là nội dung đã được đề cập trong nghị quyết các kỳ đại hội gần đây và trong dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. Tiếp nối những thành tựu đã đạt được, vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 về phát triển kinh tế tư nhân, đây là văn bản quan trọng nhất trong giai đoạn gần đây. Nghị quyết là “bước ngoặt lịch sử”, nhằm giải phóng nguồn lực, tháo gỡ “điểm nghẽn” thể chế, giúp kinh tế tư nhân bứt phá, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2030, 2045 như dự thảo đã đề ra.
Hai khối kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước là động lực chính, trong đó, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 52% (trung bình thế giới khoảng 70%), kinh tế nhà nước đóng góp 20% (trước năm 2021 là 24%). Hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nước còn thấp, dẫn đến tích lũy đầu tư chiều sâu chậm. Giai đoạn 2011-2022, doanh nghiệp nhà nước giảm tỷ trọng vốn và đóng góp lợi nhuận chung (lần lượt giảm từ 33% xuống 20% về vốn, 42% xuống 24% về lợi nhuận); khi so sánh với doanh nghiệp tư nhân (tăng từ 51% lên 60% về vốn, 25% lên 38% về lợi nhuận) và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (tăng từ 16% lên 20% về vốn, 32% lên 38% về lợi nhuận).

Ảnh minh họa: baochinhphu.vn
Qua đó có thể thấy một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, sức cạnh tranh yếu và vị thế thấp đối với doanh nghiệp trong nước. Giai đoạn 2010-2024, doanh nghiệp trong nước giảm tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu từ 53% xuống 29%, nhập khẩu từ 56% xuống 37%, sự chuyển dịch về xuất, nhập khẩu sang các doanh nghiệp FDI. Năm 2024, trong thặng dư 25 tỷ USD thì đóng góp của FDI chiếm 49 tỷ USD, doanh nghiệp trong nước thâm hụt 24 tỷ USD và có xu hướng tiếp tục tăng.
Thứ hai, doanh nghiệp trong nước chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng toàn cầu, chủ yếu tập trung sản xuất mặt hàng giá trị thấp, ít giá trị gia tăng phục vụ tiêu dùng trong nước hơn xuất khẩu. Các FDI lớn gặp khó khăn khi tìm kiếm nhà cung cấp trong nước.
Thứ ba, hiệu quả đầu tư đóng góp cho tăng trưởng của khối doanh nghiệp nhà nước chưa cao. Đánh giá theo số liệu ICOR (hiệu quả theo vốn đầu tư) của Cục Thống kê thì doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp nhất với ICOR khoảng 10,3 so với doanh nghiệp tư nhân khoảng 7,6.
Cuối cùng, vị thế vững chắc, nền tảng cạnh tranh quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam yếu, chưa mạnh dạn tham gia đầu tư quốc tế.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB) là doanh nghiệp với 50% vốn chủ sở hữu thuộc các doanh nghiệp Quân đội và doanh nghiệp nhà nước, là đơn vị kinh tế kết hợp quốc phòng thành lập từ năm 1994 theo chủ trương của Quân ủy Trung ương. Hiện nay, MB là ngân hàng có quy mô khách hàng phục vụ lớn nhất ngành với 34 triệu khách hàng và 150 nghìn doanh nghiệp; quy mô MB đứng thứ 5 với tổng tài sản hơn 1,3 triệu tỷ đồng, vốn điều lệ hơn 81 nghìn tỷ đồng (cơ bản tự tích lũy). Chiến lược MB tập trung phục vụ khách hàng thông qua đầu tư cho công nghệ, nền tảng số (với 3 nền tảng: AppMB, BizMB, Thiện nguyện) với quy mô giao dịch đứng đầu hiện nay dự kiến 15 tỷ giao dịch năm 2025 (tỷ lệ giao dịch kênh số gần đạt 100%). Hằng năm, MB đóng góp cho ngân sách nhà nước khoảng 10 nghìn tỷ đồng; tham gia các chương trình của Nhà nước-Chính phủ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước.
Từ thực tiễn kinh doanh của MB đối với quy mô khách hàng lớn trong mọi thành phần kinh tế và qua nghiên cứu dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, tôi đề xuất 4 giải pháp căn bản như sau:
Đầu tiên, thúc đẩy hiệu quả các doanh nghiệp trong nước thông qua: (i) thúc đẩy đầu tư công để tạo vốn mồi, sự lan tỏa, (ii) bảo đảm môi trường pháp lý bảo vệ chắc chắn quyền sở hữu, tự do kinh doanh và bảo vệ doanh nghiệp, tạo các cơ hội đầu tư mới, khuyến khích tham gia vào các dự án mới, dự án sản xuất, khuyến khích cao độ doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là đầu tư sâu cho công nghệ, công nghệ lõi. Nhà nước, Chính phủ đưa ra đường lối quan trọng thúc đẩy công nghệ, hạ tầng cho các doanh nghiệp; đầu tư cho nhân tài quản trị và công nghệ, ưu tiên doanh nghiệp trong nước làm chủ các dự án nền tảng quốc gia, thực thi nghiêm chủ trương của Đảng và pháp luật Nhà nước về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
Tiếp theo, nâng cao vị thế và thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào các chuỗi sản xuất, dịch vụ toàn cầu thông qua: (i) xác định vị thế doanh nghiệp Việt tại một số ngành mũi nhọn (công nghệ thông tin, nông nghiệp, dệt may, cơ khí, cảng-logistics, boxit và kim loại cơ bản...), (ii) các chính sách ưu tiên về thuế, đầu tư cho khoa học, công nghệ và nghiên cứu, (iii) tác động FDI sử dụng đối tác Việt Nam, chuyển giao công nghệ và tận dụng các FTA đã ký kết.
Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước thông qua cơ chế: (i) Nhà nước/Chính phủ định hướng, quyết định về chiến lược, doanh nghiệp nhà nước áp dụng cơ chế quản trị như tư nhân và theo tiêu chuẩn/thông lệ tiên tiến thế giới, gắn thu nhập, vị trí với kết quả kinh doanh để thu hút nhân tài; (ii) doanh nghiệp nhà nước phụ trách các dự án quan trọng, đặc biệt là các dự án có lợi thế quốc gia.
Cuối cùng, xây dựng năng lực cạnh tranh và vị thế cho doanh nghiệp Việt Nam, tập trung vào năng lực quản trị, tinh thần đổi mới, khả năng nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, chất lượng sản phẩm/dịch vụ cho xuất khẩu, mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Mục tiêu tạo ra trên 1.000 doanh nghiệp tiên phong ra quốc tế, trong đó Nhà nước nên tìm kiếm hậu thuẫn mạnh mẽ cho 100 doanh nghiệp tiên phong của Việt Nam cạnh tranh thế giới (trong các ngành có lợi thế như công nghệ thông tin-chuyển đổi số, cơ khí, viễn thông, may mặc, vận tải biển và các ngành mới nổi như năng lượng xanh, đóng tàu, vật liệu cơ bản có giá trị cao và sẵn tiềm năng trong nước và khu vực lân cận), kèm với (i) chính sách ngoại giao bảo vệ và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại thị trường nước ngoài, (ii) cơ chế đặc biệt từ vốn, nhân tài, thu hút đầu tư từ Trung ương (doanh nghiệp cấp quốc gia) tới các tỉnh/thành phố (doanh nghiệp trọng điểm của địa phương).
Đã nói đến doanh nghiệp là nói đến cạnh tranh: Năng lực cạnh tranh mạnh, năng lực khoa học, công nghệ, năng lực học tập, đổi mới và tận dụng các cơ hội mới, được củng cố bởi tinh thần dân tộc mới đưa Việt Nam tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hùng cường, thịnh vượng...











