Giải pháp nào ứng phó với ngập lụt, lũ quét, sạt lở đất ngày càng dồn dập?
Chỉ trong vài tháng, hàng chục vụ lũ quét, sạt lở đất đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm người, khiến hàng nghìn ngôi nhà tan hoang. Thiên tai không còn là điều 'bất ngờ' mà là thực tế đang diễn ra ngày càng khốc liệt.
Liên quan đến tình hình lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất xảy ra ở nhiều nơi gây hậu quả nghiêm trọng, phóng viên VOV.VN có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Xuân Hiển - Phó Giám đốc Trung tâm KTTV Quốc gia.
Phóng viên: Ông có thể đánh giá tình hình thiên tai như lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất ở nước ta trong thời gian trở lại đây?
Ông Nguyễn Xuân Hiển: Trong vài năm trở lại đây, tình hình lũ, lũ quét và sạt lở đất ở Việt Nam có diễn biến rất phức tạp, khó lường và mang tính cực đoan rõ rệt hơn so với trung bình nhiều năm. Thiên tai lũ, lũ quét và sạt lở đất xảy ra với tần suất cao hơn, cường độ mạnh hơn và phạm vi ảnh hưởng mở rộng hơn như đợt mưa lũ lịch sử ở miền Trung năm 2020 hay mưa lớn gây ngập úng nghiêm trọng ở miền Bắc trong năm 2024 và 2025 vừa qua.

Ông Nguyễn Xuân Hiển - Phó Giám đốc Trung tâm KTTV Quốc gia (Cục Khí tượng thủy văn).
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong 9 tháng đầu năm 2025, thiên tai đã làm 187 người chết và mất tích, hơn 38.400 ngôi nhà bị hư hỏng, với tổng thiệt hại vật chất ước tính vượt 16.135 tỷ đồng. Xu hướng thời tiết cực đoan thể hiện rõ qua các đợt mưa lớn kéo dài, lượng mưa cực đại tăng mạnh, làm nguy cơ lũ quét và sạt lở gia tăng đột ngột. Các khu vực miền núi phía Bắc (như Lào Cai, Yên Bái) và Tây Nguyên (Lâm Đồng) liên tục ghi nhận các điểm sạt lở nguy hiểm.
Điển hình là thảm họa lũ quét ở thôn Làng Nủ (Lào Cai) sáng 10/9/2024, khi hơn 1,6 triệu m³ bùn đá bất ngờ đổ xuống chỉ trong vài phút, vùi lấp gần 40 ngôi nhà và khiến hơn 50 người thiệt mạng/mất tích. Mức độ tàn phá nhanh chóng và khốc liệt của các sự kiện này cho thấy rủi ro thiên tai tại Việt Nam ngày càng khó dự báo cục bộ, trong khi nhiều cộng đồng vẫn sinh sống ở vùng nguy cơ cao.
Phóng viên: Để ứng phó chủ động lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất cần có những giải pháp gì?
Ông Nguyễn Xuân Hiển: Những vụ việc này cho thấy, rủi ro thiên tai tại Việt Nam ngày càng diễn biến nhanh, khốc liệt và khó dự báo, cảnh báo. Để ứng phó chủ động và giảm thiểu rủi ro thiên tai lũ quét, sạt lở đất, cần triển khai đồng bộ bốn nhóm giải pháp trọng tâm.
Đầu tiên, cần tiếp tục tăng cường năng lực dự báo và cảnh báo sớm thiên tai, đặc biệt năng lực dự báo mưa lớn cực đoan thời đoạn ngắn bằng các công nghệ hiện đại như Radar thời tiết, vệ tinh, trí tuệ nhân tạo để bổ sung các thông tin về dự báo mưa trong hệ thống cảnh báo lũ quét sạt lở đất thời gian thực, hệ thống đang được vận hành rất hiệu quả trong thời gian gần đây tại Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia. Tại các khu vực có nguy cơ lũ quét cao, có thể tiến hành xây dựng, lắp đặt các thiết bị tự động, cảm biến IoT để cánh báo thiên tai trực tiếp theo diễn biến mưa và các biến động về đất, thảm phủ. Bên cạnh đó, thống cảnh báo lũ quét sạt lở đất thời gian thực cũng cần được phát chi tiết đến từng thôn bản, bổ sung thêm các lớp thông tin về dân cư, kinh tế xã hội, các công trình phòng, chống thiên tai để làm cơ sở trong công tác phòng, chống lũ quét, sạt lở đất.
Thứ hai, cần triển khai đồng bộ công tác quy hoạch dân cư, phát triển kinh tế xã hội, tuyệt đối không bố trí tập trung dân cư tại các khu vực có nguy cơ cao về lũ quét, sạt lở đất, di dời dứt điểm dân cư khỏi các khu vực có rủi ro cao về lũ quét, sạt lở đất. Bên cạnh đó, phải tăng cường trồng rừng phòng hộ và phủ xanh vùng đầu nguồn để giữ đất.

Chỉ trong vài tháng, hàng chục vụ lũ quét, sạt lở đất đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm người, khiến hàng nghìn ngôi nhà tan hoang. Thiên tai không còn là điều “bất ngờ” mà là thực tế đang diễn ra ngày càng khốc liệt.
Thứ ba, cần tiếp tục nâng cao năng lực và nhận thức của cán bộ làm công tác phòng chống thiên tai tại cấp xã và cộng đồng dân cư cấp thôn, bản, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Tổ chức tập huấn định kỳ cho người dân ở vùng nguy cơ cao về lũ quét, sạt lở đất về kỹ năng thoát hiểm, sơ tán và sơ cứu khi thiên tai xảy ra, đồng thời tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội trong việc phổ biến thông tin. Ngoài ra, việc đưa các kiến thức về thiên tai, biến đổi khí hậu và kỹ năng phòng tránh thiên tai vào trường học cũng là cách để nâng cao năng lực cộng đồng. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh công tác truyền tin thông qua các phương tiện như SMS, loa truyền thanh và ứng dụng di động, mạng xã hội giúp thông tin thiên tai đến người dân nhanh và hiệu quả nhất.
Phóng viên: Theo ông, đâu là giải pháp mấu chốt? Để có chiến lược ứng phó, phòng tránh, có nhiều ý kiến cho rằng cần có bản đồ cụ thể, sát thực về lũ quét, sạt lở đất, liệu đây có phải là giải pháp tốt?
Ông Nguyễn Xuân Hiển: Trong bối cảnh thiên tai, đặc biệt là lũ quét và sạt lở đất, ngày càng diễn biến cực đoan, việc xây dựng một chiến lược ứng phó chủ động là cần thiết. Mặc dù tất cả các giải pháp đều quan trọng, nhưng với tính chất của lũ quét, sạt lở diễn biến rất nhanh nên cần phải chủ động phòng ngừa, trong đó, việc nâng cấp hệ thống cảnh báo lũ quét sạt lở đất thời gian thực được cho rằng có ý nghĩa quan trọng nhất trong ứng phó, phòng tránh với thiên tai lũ quét, sạt lở đất.
Thực tế thời gian qua cho thấy, nhiều vụ sạt lở lớn ở Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Hà Giang, Nghệ An và Lâm Đồng xảy ra ở những khu vực có địa hình phức tạp, mưa lớn kéo dài, nhưng dữ liệu chưa được cập nhật kịp thời, ngoài việc nâng cao năng lực dự báo mưa hạn cực ngắn đã phân tích ở trên thì việc nâng cấp hệ thống thông qua việc tích hợp thêm các bản đồ có độ phân giải cao về địa hình, thổ nhưỡng, thảm phủ phân bố dân cư, kinh tế xã hội… là yếu tố quan trọng trong dự báo, cảnh báo và phòng chống lũ quét, sạt lở đất.
Việc nâng cấp và duy trì hệ thống cảnh báo lũ quét sạt lở đất thời gian thực không chỉ giúp nhận diện rõ được các khu vực có nguy cơ cao, mà còn là căn cứ khoa học để chính quyền địa phương quy hoạch dân cư, cơ sở hạ tầng và triển khai phương án phòng tránh, di dời dân khi cần thiết.