Giữ lửa vòng xòe của dân tộc Hà Nhì

Những điệu xòe giữa núi rừng Tây Bắc đến hôm nay vẫn hiện diện trong đời sống của bản làng, như mạch nguồn văn hóa bền bỉ. Không chữ viết, trải bao cuộc thiên di, người Hà Nhì vẫn giữ được kho tàng nghệ thuật đặc sắc, mà nổi bật là múa xòe, điệu múa kết tụ tinh thần cộng đồng, niềm vui lao động và khát vọng mùa màng yên ấm.

Người Hà Nhì thường múa vào dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng như lễ hội, Tết. Ảnh: Thủy Lê

Người Hà Nhì thường múa vào dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng như lễ hội, Tết. Ảnh: Thủy Lê

Vòng xòe, nơi tinh thần cộng đồng được thắp sáng

Người Hà Nhì cư trú rải rác ở nhiều tỉnh biên giới phía Bắc nhưng tập trung nhất ở ba địa bàn: Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai; gồm ba nhóm người: Cồ Chồ, Lạ Mí, Hà Nhì Đen. Mỗi nhóm người có trang phục, phong tục đôi phần khác biệt, nhưng đều chung một nét văn hóa sống động, đó là đam mê múa hát và tôn vinh cái đẹp của lao động, của cộng đồng bằng ngôn ngữ hình thể mộc mạc mà quyến rũ.

Sống giữa núi cao, gần biên giới, người Hà Nhì ít chịu tác động của các luồng văn hóa bên ngoài. Chính sự “biệt lập tự nhiên” ấy lại trở thành điều kiện để văn nghệ dân gian Hà Nhì giữ được vẻ nguyên sơ, tinh sạch. Những làn điệu dân ca, tiếng trống chiêng, hay cách đặt nhịp cho một vòng múa xòe đều chứa đựng nếp nghĩ, tinh thần, mỹ cảm của một dân tộc dù không có chữ viết nhưng có sức lưu giữ di sản đáng nể. Với người Hà Nhì, múa không chỉ là biểu diễn, mà là tiếp nối cuộc sống, là ngày vui của bản, là hơi thở giữa những nương ngô, thửa lúa, là tiếng lòng gửi về tổ tiên trong những ngày lễ cúng mùa, lễ mừng năm mới hay ngày cưới. Chỉ cần có trăng sáng, không gian yên tĩnh và tiếng trống giục giã, điệu múa lại tự nhiên xuất hiện như cách cộng đồng gọi nhau về, nắm tay nhau và kể với nhau câu chuyện của núi.

Những điệu múa dân gian Hà Nhì rất phong phú. Từ múa dệt vải (xà là gồ) mô phỏng đôi bàn tay người phụ nữ tỉ mỉ bên khung cửi; múa sản xuất (te ma ú chà khồ tố) tái hiện dáng người đi nương, tiếng cuốc bổ; đến múa nón, múa trông trăng, múa ngày đẹp (á mì sư) đầy chất đời thường. Mỗi điệu múa là một lát cắt của văn hóa và lối sống, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhưng đặc biệt nhất, đẹp nhất, đông vui nhất vẫn là múa xòe (cá nhi nhi), thứ “tâm hồn” của người Hà Nhì mỗi khi bản làng vào hội.

Trong kho tàng văn hóa Hà Nhì, múa xòe giữ một vị trí đặc biệt. Nếu tiếng khèn của người Mông được ví như thổn thức của núi, tiếng trống chiêng của người Thái là nhịp vỗ của trái tim, thì múa xòe Hà Nhì lại là ánh lửa ấm, là sự gắn kết của biết bao thế hệ từ ngày bản còn nghèo khó đến khi đời sống đổi thay. Không gian diễn xòe thường rộng mở: sân đất trước nhà, khoảng trống giữa bản, đôi khi là bên hiên nhà mới dựng hoặc trước gian lễ hội. Chỉ cần ai đó cất tiếng hát, tiếng trống vang lên là mọi người từ già trẻ, trai gái lại kéo nhau về, nắm tay nhau tạo thành vòng tròn rộng. Sợi dây vô hình liên kết từng bàn tay ấy như cho cả bản làng chung một nhịp thở.

Già làng Lý Giá Xe, người dân tộc Hà Nhì, trú tại thôn Lao Chải, xã Trịnh Tường, tỉnh Lào Cai cho biết, xòe Hà Nhì không có những động tác cầu kỳ. Vẻ đẹp của xòe nằm ở sự hài hòa, đồng đều, uyển chuyển theo nhịp chân và bàn tay. Khi vòng xòe lan rộng, từng bước chân nhịp nhàng, từng cái nghiêng vai, đưa tay mềm mại đã tạo thành một bức tranh tập thể đẹp lạ lùng. Đó là vẻ đẹp của cộng đồng, của tinh thần đoàn kết, của niềm tin rằng mọi điều tốt lành đều bắt đầu từ sự sum vầy. Động tác tay trong múa xòe thường mềm như nước suối, khi thì mở rộng như muốn ôm cả trời đất, lúc lại thu nhẹ về phía ngực, nơi trái tim người Hà Nhì luôn hướng về tổ tiên. Có khi vòng xòe chậm dãi như cuộc đời bình yên, có lúc lại nhanh rộn ràng như mùa hoa ban bung nở khắp rừng. Điều kỳ lạ là dù tiết tấu đổi thay, dù người tham gia đông tới mức vòng xòe kéo dài hàng chục mét, thì sự đồng đều vẫn được giữ nguyên, thứ kỷ luật nghệ thuật hình thành từ sự đồng cảm chứ không phải từ sự ép buộc nào.

Điều làm các nhà nghiên cứu văn hóa mê hoặc khi tìm hiểu về múa Hà Nhì là mỗi điệu múa đều gắn với lao động và lễ hội, hai trụ cột quan trọng của đời sống. Điệu múa dệt vải nhắc nhớ đến nghề truyền thống của phụ nữ Hà Nhì. Trong từng động tác nghiêng vai, kiễng chân, xoay cổ tay nhẹ như gió, người ta thấy đủ cả sự khéo léo, kiên nhẫn và niềm tự hào về bộ trang phục luôn được coi là “tấm căn cước” riêng của dân tộc mình. Điệu múa sản xuất lại mang đậm hơi thở núi rừng. Những động tác mô phỏng đường cày trên nương, tiếng cuốc, dáng gùi củi, dáng sàng lúa được đưa vào vũ điệu một cách sinh động. Khi cả bản cùng múa điệu này trong lễ mừng mùa, cảnh tượng ấy giống như một bức tranh khổng lồ thể hiện sự đồng lòng, ước vọng đủ đầy trong năm mới. Bên cạnh đó, múa nón, múa trông trăng, hay múa ngày đẹp đều toát lên tinh thần vui sống. Nét đẹp của chúng đôi khi chỉ nằm trong cái nghiêng nhẹ của chiếc nón, cái xoay vòng để đón ánh trăng, hay động tác mở rộng tay đón nắng mùa xuân. Những điều giản dị ấy làm nên hồn cốt nghệ thuật múa Hà Nhì, thứ nghệ thuật không cần sân khấu lớn, không cần ánh đèn rực rỡ, chỉ cần trái tim yêu đời là đủ.

Giữ lửa nghệ thuật nơi phên giậu

Ngày nay, nghệ thuật múa xòe Hà Nhì vẫn giữ được sức sống dẻo dai như cây sa mu mọc trên dốc núi. Thế nhưng, để “ngọn lửa” ấy tiếp tục cháy sáng trong đời sống, cần nhiều những tấm lòng đang ngày ngày lặng thầm bồi đắp. Không chỉ có những già làng, nghệ nhân - những “báu vật sống” của bản, mà còn có sự góp sức của chính quyền địa phương, của các tổ chức văn hóa, và đặc biệt là của những người lính Biên phòng luôn sát cánh cùng đồng bào nơi tuyến đầu Tổ quốc.

Các đội văn nghệ quần chúng Hà Nhì đã trở thành “vườn ươm” di sản. Ảnh: Thủy Lê

Các đội văn nghệ quần chúng Hà Nhì đã trở thành “vườn ươm” di sản. Ảnh: Thủy Lê

Ở nhiều xã biên giới của Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, các đội văn nghệ quần chúng Hà Nhì đã trở thành “vườn ươm” di sản. Mỗi tối sau mùa gặt, tiếng khèn lá, tiếng trống chiêng lại gọi đám trẻ trong bản tụ họp. Dưới mái nhà cộng đồng, các bà, các chị kiên nhẫn hướng dẫn động tác tay, nhịp chân; những người đàn ông lớn tuổi tỉ mỉ chỉ cho lớp trẻ cách giữ nhịp, cách bước vòng sao cho đều và đẹp. Những buổi tập đôi khi chỉ có ánh đèn dầu le lói, vậy mà tiếng cười vẫn vang lên ấm áp. Với người Hà Nhì, truyền dạy múa không chỉ là truyền dạy kỹ thuật, mà là trao nhau cả rừng núi, trao nhau quá khứ và tự hào dân tộc.

Không thể không nhắc đến dấu ấn của BĐBP, những người được bà con gọi bằng cái tên thân thương “bộ đội cột mốc”. Ngoài nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ biên giới, họ còn gắn bó sâu sắc với đời sống văn hóa của bản làng. Nhiều đồn Biên phòng đã phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức ngày hội văn hóa biên giới, phục dựng lễ hội truyền thống, hỗ trợ đồng bào trang phục, đạo cụ biểu diễn, thậm chí còn tham gia sáng tác lời mới cho các làn điệu dân ca cổ để phù hợp với đời sống hôm nay. Hình ảnh những người lính quân hàm xanh hết giờ trực lại xuống bản tập múa với dân, cùng nâng vòng xòe trong đêm lửa trại... đã trở thành hình ảnh đẹp đẽ, được người Hà Nhì truyền nhau trong những câu chuyện mùa nương.

Chị Phạm Thị Bích, một du khách đến từ Hà Nội cho biết: "Chúng tôi đến với bà con dân tộc Hà Nhì không chỉ để nhìn những ruộng bậc thang mùa vàng, không chỉ để thưởng thức hương rượu từ men lá rừng, mà còn để được hòa mình trong vòng xòe, để cảm nhận sự chân thành, mộc mạc và niềm vui sống của đồng bào. Mỗi vòng xòe mở rộng là một cơ hội để văn hóa bản địa lan tỏa".

Trong hành trình ấy, nghệ thuật múa xòe đã vượt ra khỏi vai trò của một di sản, trở thành sợi dây liên kết giữa các thế hệ, là phương tiện để người Hà Nhì kể câu chuyện của mình bằng ngôn ngữ non cao; là nhịp cầu nối người đi xa với cội nguồn và cũng là cách để biên cương được gìn giữ bằng sự ấm áp, bền bỉ của đời sống tinh thần phong phú.

Thủy Lê

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/giu-lua-vong-xoe-cua-dan-toc-ha-nhi-post497662.html