Góp ý dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Tư duy hành động từ sớm, từ xa - dấu ấn đổi mới trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng
Theo Phó Bí thư Đảng ủy Bộ Tư pháp Nguyễn Quang Thái, điểm mới nổi bật của Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV là lần đầu tiên tích hợp Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội vào văn kiện. Chủ trương này khắc phục độ trễ thường thấy sau mỗi kỳ Đại hội, khi phải chờ xây dựng chương trình hành động riêng; đồng thời nâng cao tính hành động, tính khả thi và tính liên thông giữa chủ trương - kế hoạch - tổ chức thực hiện.
Bước phát triển về dân chủ trong Đảng
- Thưa ông, từ góc nhìn của người lãnh đạo Đảng bộ Bộ Tư pháp, ông đánh giá như thế nào về những điểm mới, điểm nhấn trong các dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, đặc biệt là nội dung về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam?
Có thể khẳng định, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện bước đổi mới toàn diện trong tư duy lãnh đạo và phát triển đất nước, với năm điểm nhấn lớn. Thứ nhất, đổi mới hệ thống chính trị, gắn tăng trưởng kinh tế với ổn định chính trị và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; ba trụ cột lập pháp – hành pháp – tư pháp được phối hợp nhịp nhàng, hướng tới quản trị nhà nước minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Thứ hai, cải cách tổ chức bộ máy tinh gọn, giảm chồng chéo, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, bảo đảm thống nhất và đồng bộ trong lãnh đạo, quản lý. Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới khoa học – công nghệ, coi con người và tri thức là động lực to lớn cho sự phát triển bền vững của xã hội. Thứ tư, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được khẳng định là trụ cột nền tảng trong việc xác lập mô hình nhà nước, bảo đảm thượng tôn pháp luật, công bằng, minh bạch và nâng cao hiệu lực thực thi chính sách. Thứ năm, chủ động, linh hoạt hội nhập quốc tế, vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm toàn cầu gắn với đặc thù Việt Nam.
- Điểm mới nổi bật của Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV là lần đầu tiên tích hợp Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội vào văn kiện. Chủ trương này nhằm nâng cao tính hành động và tổ chức thực hiện ngay, thay vì phải chờ nửa đầu nhiệm kỳ. Ông đánh giá thế nào về ý nghĩa và tác động chiến lược của chủ trương này đối với hiệu lực lãnh đạo của Đảng và việc triển khai các nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ?
Tôi cho rằng đây là đổi mới có ý nghĩa chiến lược về phương thức lãnh đạo của Đảng, thể hiện tinh thần hành động từ sớm, từ xa, từ trong Đại hội. Ý nghĩa của việc tích hợp Chương trình hành động giúp chuyển hóa các mục tiêu, định hướng lớn của Nghị quyết thành nhiệm vụ, giải pháp và lộ trình thực hiện cụ thể, gắn trách nhiệm với từng chủ thể. Điều này khắc phục độ trễ thường thấy sau mỗi kỳ Đại hội, khi phải chờ xây dựng chương trình hành động riêng, đồng thời nâng cao tính hành động, tính khả thi và tính liên thông giữa chủ trương – kế hoạch – tổ chức thực hiện.
Ngoài ra, việc đưa Chương trình hành động vào Báo cáo chính trị tạo ra cơ chế giám sát và phản biện ngay tại Đại hội. Các đại biểu - đại diện cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân – sẽ thảo luận, góp ý, rà soát và thông qua không chỉ định hướng chính trị mà cả các giải pháp, chương trình, đề án trọng tâm để thực hiện. Như vậy, các nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ được “kiểm chứng” ngay từ trong Đại hội, bảo đảm tính đồng thuận, khả thi và minh bạch trong quá trình triển khai. Đây chính là bước phát triển về dân chủ trong Đảng, tăng cường tính công khai và trách nhiệm chính trị trong hoạch định, thực thi đường lối.
Về phương diện tổ chức thực hiện, cách làm này tạo điều kiện để toàn hệ thống chính trị bước vào triển khai ngay sau Đại hội, với các chương trình, đề án, kế hoạch hành động đã được xác định rõ người chủ trì, cơ quan chịu trách nhiệm và chỉ tiêu cần đạt. Điều đó nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng, gắn kết chặt chẽ giữa công tác xây dựng đường lối và chỉ đạo thực tiễn.
Bản lĩnh tự đổi mới, tự soi, tự sửa, tự hoàn thiện
- Dự thảo Báo cáo chính trị bổ sung “lý luận về đường lối đổi mới” là một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo ông, việc bổ sung này có ý nghĩa như thế nào trong việc hoàn thiện tư duy lý luận, nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn và khẳng định bản lĩnh tự đổi mới của Đảng, đồng thời định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn mới?
Việc bổ sung “lý luận về đường lối đổi mới” vào Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV là bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng, thể hiện bản lĩnh tự đổi mới, tự hoàn thiện, kiên định sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo cách mạng và phát triển đất nước. Thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đây là sự khái quát có tính học thuyết về thành quả 40 năm đổi mới, nâng thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới lên tầm lý luận, làm phong phú thêm nền tảng tư tưởng của Đảng. “Lý luận về đường lối đổi mới” vừa kế thừa chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phát triển sáng tạo, phù hợp điều kiện Việt Nam thời kỳ mới, giúp Đảng có cơ sở lý luận vững chắc để nhận thức đúng quy luật, định hướng chiến lược phát triển, bảo đảm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tư duy chính trị và hành động cách mạng.
Thứ hai, bổ sung này khẳng định năng lực tự đổi mới và bản lĩnh tự hoàn thiện của Đảng, thể hiện hình ảnh một Đảng cầm quyền luôn biết tự soi, tự sửa, tự bồi đắp lý luận trên nền tảng thực tiễn. Qua đó, Đảng củng cố tính chính danh, năng lực lãnh đạo, tầm nhìn và khả năng dự báo, thích ứng linh hoạt với bối cảnh trong nước, quốc tế. Đây là minh chứng sinh động cho bản lĩnh tự đổi mới – nhân tố quyết định giúp Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Thứ ba, về phương diện chiến lược, “lý luận về đường lối đổi mới” tạo nền tảng tư duy khoa học cho hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện trong giai đoạn mới. Giúp hệ thống chính trị nhận diện đúng xu thế, thách thức và cơ hội, chủ động xây dựng mô hình tăng trưởng nhanh, bền vững, hiện đại, hội nhập sâu rộng. Việc hoàn thiện “lý luận về đường lối đổi mới” còn giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin Nhân dân, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia và uy tín quốc tế của Việt Nam.
Đột phá về thể chế phát triển
- Dự thảo Văn kiện xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó nhấn mạnh đột phá về thể chế phát triển, nâng cao năng lực hoạch định, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thưa ông, trong lĩnh vực tư pháp – pháp luật, khâu đột phá trọng tâm nào được xác định để tạo chuyển biến thực chất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và phát triển đất nước trong giai đoạn mới? Bộ Tư pháp đã và đang triển khai thực hiện khâu đột phá này ra sao?
Trong giai đoạn phát triển mới, theo tôi đột phá trọng tâm của lĩnh vực tư pháp - pháp luật là: “hoàn thiện pháp luật – tháo gỡ điểm nghẽn – phát triển nhân lực – chuyển đổi số”. Để thực hiện đột phát này, Bộ Tư pháp đã và đang tập trung:
Thứ nhất, chủ động tham mưu, phối hợp tham mưu cho Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ ban hành các chủ trương, chính sách lớn như Nghị quyết 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới và Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Tham mưu ban hành, hoặc phối hợp, thẩm định nhiều đạo luật quan trọng, tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, khung pháp lý cho mô hình chính quyền hai cấp. Cơ chế ủy quyền lập pháp được thể chế hóa qua các Nghị quyết 130, 190, 197, 206/2025/QH15, tạo hành lang xử lý các tình huống đặc biệt, chưa có tiền lệ và tạo cơ sở pháp lý để thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Nghiên cứu, xây dựng Đề án “Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”…
Thứ hai, chuyển từ tư duy kỹ thuật sang tư duy hoạch định chính sách; tăng cường phân tích, dự báo tác động, nâng cao chất lượng hồ sơ chính sách và dự án luật. Năm 2025, Bộ Tư pháp đã phối hợp các Bộ, ngành, địa phương rà soát, tham mưu để tháo gỡ hàng trăm “điểm nghẽn” do quy định pháp luật (dự kiến cơ bản hoàn thành trong năm 2025), góp phần cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng.
Thứ ba, công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản được thực hiện đồng bộ, nhất là triển khai Đề án đổi mới công tác thi hành pháp luật, trong đó tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc thực hiện. Đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật trên nền tảng số – Cổng pháp luật quốc gia minh bạch, thân thiện. Tăng cường rà soát văn bản (giai đoạn 2020–2024 đã rà soát gần 170 nghìn văn bản, đạt 99,07%) và rà soát chuyên đề về kinh tế, đầu tư, đất đai, phân cấp, thủ tục hành chính; hoàn thiện, công bố Bộ pháp điển thống nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, khả thi.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, tư duy đổi mới, kỹ năng hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Áp dụng cơ chế đặc thù tuyển dụng, thu hút nhân tài; đổi mới đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu; phát triển các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trọng điểm, trong đó tham mưu Thủ tướng phê duyệt và đang tổ chức thực hiện ba đề án lớn về phát triển Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp và nguồn nhân lực xây dựng pháp luật đến năm 2030.
Thứ năm, xây dựng cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia hướng tới “đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung”, cập nhật tự động; ứng dụng AI trong phát hiện mâu thuẫn, dự báo chính sách, giám sát thi hành pháp luật. Phát triển nền tảng phổ biến, tư vấn pháp luật trực tuyến, hướng tới số hóa quy trình công tác chuyên môn, 100% dịch vụ công tư pháp đạt mức độ trực tuyến toàn trình và đào tạo 100% lãnh đạo, chuyên viên chủ chốt về chuyển đổi số.
- Trân trọng cám ơn ông!












