GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: 'Việt Nam dư sức sản xuất UAV'

'Quan điểm của tôi, về khoa học công nghệ, Việt Nam có thể sản xuất được máy bay quân sự và máy bay dân dụng vốn yêu cầu kỹ thuật, độ an toàn cực cao', GS.TSKH Nguyễn Đức Cương nói.

Ở tuổi 80, GS.TSKH Nguyễn Đức Cương – người đã biến tên lửa K5 do Nga viện trợ thành mục tiêu bay cho phi công tập bắn, chế tạo thành công buồng tập lái máy bay cách đây 30-40 năm, tiết kiệm cho nhà nước hàng chục triệu USD - vẫn rất trăn trở với công nghệ hàng không - vũ trụ.

GS.TSKH Nguyễn Đức Cương - người đã biến tên lửa K5 do Nga viện trợ thành mục tiêu bay cho phi công tập bắn, chế tạo thành công buồng tập lái máy bay cách đây 30-40 năm, tiết kiệm cho nhà nước hàng chục triệu USD.

GS.TSKH Nguyễn Đức Cương - người đã biến tên lửa K5 do Nga viện trợ thành mục tiêu bay cho phi công tập bắn, chế tạo thành công buồng tập lái máy bay cách đây 30-40 năm, tiết kiệm cho nhà nước hàng chục triệu USD.

Chứng kiến những cống hiến của GS.TSKH Nguyễn Đức Cương cho phòng không, không quân Việt Nam, ít ai ngờ ông là con út trong gia đình có 4 anh em trai, 3 người anh của ông đều theo con đường văn học nghệ thuật, bố của ông là nhà phê bình văn học Hoài Thanh, nhưng ông lại theo con đường khoa học kỹ thuật.

Chia sẻ với Tạp chí Một Thế Giới, ông Cương bảo mình may mắn khi bố mẹ luôn tôn trọng, để cho ông tự do phát triển sở thích, năng khiếu, đam mê chứ không bao giờ gò ép.

- Sinh ra trong gia đình có truyền thống văn học nghệ thuật nhưng ông lại chọn khoa học kỹ thuật. Quyết định ấy bắt nguồn từ đâu, thưa ông?

- GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Năm 1961, khi tôi đang học lớp 9 trường THPT Trưng Vương (Hà Nội), tôi đã đạt giải nhì (không có giải nhất) học sinh giỏi môn toán, vật lý của trường. Đến giờ, tôi vẫn nhớ lời khen của thầy Đôn – giáo viên vật lý: “Cậu Cương này có nhiều triển vọng”. Lời động viên của thầy chính là “chìa khóa” mở ra tương lai của tôi. Tôi thấy phấn khởi, tự tin và sẵn sàng đi theo con đường khoa học kỹ thuật.

Thời điểm đó, bên không quân có đợt tuyển học viên. Được gia đình ủng hộ, tôi ứng tuyển và được chọn. Do không đủ sức khỏe để làm phi công nên tôi làm kỹ thuật. Ban đầu tôi thấy mình không may vì không được bay, nhưng càng theo ngành kỹ thuật tôi càng thấy phù hợp.

Ngày ấy, cũng chưa rõ ước mơ của mình là gì, chỉ thích là học, là làm bằng được. Sau đó, tôi được chọn đi học Trung cấp kỹ thuật máy bay IL-28 tại trường Kraxnođar (Liên Xô), sau chuyển loại sang máy bay tiêm kích MiG-21 vào loại hiện đại nhất thời bấy giờ. Tiếp theo, tôi học kỹ sư máy bay ở Học Viện Kỹ thuật Không quân Giu-cốp-xky, tốt nghiệp HCV năm 1973, bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) năm 1982 và luận án tiến sĩ (nay là tiến sĩ khoa học) năm 1989 tại Liên Xô.

Tính tổng thời gian, tôi học ở Liên Xô hơn 15 năm, từ trung cấp lên kỹ sư, tiến sĩ và là TSKH đầu tiên chuyên ngành Khí động học và động lực học bay. Bên không quân hay nói: “Cả không quân chỉ có một tiến sĩ”. Sau này tôi có hướng dẫn thêm được 15 nghiên cứu sinh, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.

- Nhiều người trong ngành gọi ông với sự khâm phục là GS.TSKH “phản thiết kế” (reverse engineering), ông nghĩ sao?

- GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoảng năm 1999-2000, Cục Cán bộ Tổng cục Chính trị giao cho tôi làm trưởng đoàn 15 người, mỗi người một chuyên môn sâu khác nhau sang Nga bồi dưỡng và thực tập về thiết kế tên lửa đối hải.

GS.TSKH Nguyễn Đức Cương cho rằng Việt Nam cần phải tự lực chế tạo và thử nghiệm để làm chủ công nghệ.

GS.TSKH Nguyễn Đức Cương cho rằng Việt Nam cần phải tự lực chế tạo và thử nghiệm để làm chủ công nghệ.

Thời gian học tập là 10 tháng, trong đó 4 tháng đầu học lý thuyết, 6 tháng sau thực tập thiết kế tên lửa đối hải. Sau quá trình học, điều chúng tôi thu nhận được nhiều nhất là khả năng phối hợp giữa các nhóm với nhau, còn kiến thức sâu về từng ngành không có gì mới.

Tôi nhận thấy, nếu mình muốn mua tên lửa thì họ bán nhưng với giá rất đắt. Còn nếu muốn họ chuyển giao công nghệ sản xuất cho mình thì không thể. Mình phải tự lực chế tạo và thử nghiệm để ra công nghệ, làm chủ công nghệ, nhất là ở lĩnh vực quân sự và công nghệ cao.

Và phản thiết kế là thuật ngữ thường được nhắc tới khi muốn tìm ra công nghệ chế tạo một sản phẩm ta đã mua được. Tức là bình thường từ thiết kế, mới ra công nghệ, mới ra sản phẩm. Thế nhưng bây giờ mình làm một quá trình ngược lại, từ sản phẩm, mình dựng lại bản thiết kế đó.

- Là một “gạch nối” giữa thời chiến và thời bình, ông đã có nhiều đóng góp cho công nghệ hàng không – vũ trụ Việt Nam. Công trình nào khiến ông tự hào nhất?

- GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Năm 1982, tôi làm chủ nhiệm đề tài về mục tiêu bay để huấn luyện phi công. Ngày ấy, Nga viện trợ cho Việt Nam hàng nghìn tên lửa K5 loại cũ, điều khiển rất khó. Nói cho dễ hiểu là phải ngắm bắn 3 điểm (máy bay mình, tên lửa, máy bay địch) cùng nằm trên một đường thẳng thì mới đạt hiệu quả.

Tôi mới học ở Nga về, nghiên cứu khí động học, động lực học bay và được ông Trần Hanh – Phó Tư lệnh Quân chủng Không quân giao nhiệm vụ cải biến tên lửa K5 thành mục tiêu bay cho phi công mình bắn tập. Phải làm sao cho mục tiêu bay không khó quá, vì khó quá, phi công dễ nản; và cũng không được dễ quá, phi công coi nhẹ.

Sau 3 năm nghiên cứu, năm 1985 chúng tôi bắn thử thành công. Bắn thử 5 quả, phi công tiêu diệt được 3/5, hoàn thành yêu cầu cấp trên giao phó. Đề tài được quân chủng nghiệm thu, đưa vào sản xuất mỗi năm được mấy chục mục tiêu bay để huấn luyện cho phi công bắn tên lửa hồng ngoại. Đề tài đó của tôi tiết kiệm tới hàng triệu USD cho nhà nước.

Sau khi thành công với mục tiêu bay, đầu những năm 90 thế kỷ trước, tôi được ông Phạm Thanh Ngân - Tư lệnh Quân chủng Không quân và ông Phạm Phú Thái - Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân giao nhiệm vụ làm buồng tập lái máy báy cho phi công. Buồng tập lái mô phỏng được hầu hết các tình huống bất trắc trên không và tiết kiệm được hàng chục triệu USD cùng với nhân lực. Bởi nếu bay thật mà phi công lúng túng không kịp xử lý tốt thì sẽ dẫn tới tai nạn, mất cả người và máy bay.

Một điểm nữa, với phòng tập lái, thay vì chỉ biết ngồi chơi, tập thể thao khi thời tiết xấu, phi công vẫn có thể tập luyện. Đề tài này của tôi được được quân chủng đánh giá rất cao.

Có một kỷ niệm vui liên quan tới phòng tập lái này là khi Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan trực tiếp ngồi vào phòng tập lái thử nghiệm. Ông bay một vòng về hạ cánh và bỗng nhiên kéo tay ga về, tốc độ, độ cao giảm xuống, máy bay đâm sầm xuống đất, màn hình hiện chữ to đùng ghi là tai nạn. Khi kiểm tra tới đoạn đó, ông Lan mới giơ ngón tay cái cười vui vẻ bảo: “Được, các cậu làm thế được đấy!”. Quãng năm 1992-1993, Bộ Quốc phòng nghiệm thu cho phép sản xuất 7 buồng tập lái tại 7 trung đoàn máy bay MiG-21.

Bên cạnh hai thành tựu có dấu ấn cá nhân của tôi, tôi cũng muốn nói tới một thành tựu thứ 3 gắn với Trung tướng Trương Khánh Châu, thời điểm cuối những năm 70, đầu những năm 80 thế kỷ trước là Viện trưởng Viện Kỹ thuật Không quân.

Ông Châu lên ý tưởng ngành không quân Việt Nam phải tự làm được máy bay và đã huy động được vài chục kỹ sư giỏi, làm được 3 máy báy. Chiếc đầu tiên là máy bay trinh sát và liên lạc TL1 ra đời năm 1980. Sau đó là 2 máy bay huấn luyện HL1 ra đời năm 1984 và HL2 ra đời năm 1987. Những chiếc máy bay này hiện vẫn đang trưng bày ở Bảo tàng Phòng quân – Không quân.

Gần đây nhất, có công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật hàng không (AESC) phối hợp với công ty Flying Legend (Ý) sản xuất máy bay huấn luyện TP-150 tại Việt Nam. Tôi đã nói chuyện với anh Đăng (ông Trần Hải Đăng - chủ tịch HĐQT công ty Cổ phần Flying Legend Vietnam – PV) và hỏi thị trường ra sao? Anh Đăng cho biết là chủ yếu xuất khẩu sang Nam Mỹ, trong nước chỉ mua vài chiếc.

- Nghĩa là theo ông, về mặt công nghệ, Việt Nam có thể sản xuất máy bay. Vấn đề còn lại chỉ là thị trường?

- GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Quan điểm của tôi, về khoa học công nghệ, Việt Nam có thể sản xuất được máy bay quân sự và máy bay dân dụng vốn yêu cầu kỹ thuật, độ an toàn cực cao.

Nhưng chúng ta không thể cạnh tranh nổi với các hãng máy bay hàng đầu thế giới của Mỹ và châu Âu vốn có đội ngũ, kinh nghiệm hàng trăm năm như Boeing, Airbus. Tốt nhất là chúng ta nên mua máy bay dân dụng của nước ngoài. Vietnam Airlines nổi tiếng thế giới khi đã bay mấy triệu km rồi mà chưa có một lần nào tai nạn, đó cũng có thể coi là thành tựu lớn của hàng không Việt Nam.

Tôi nghĩ, giải pháp tốt nhất là Việt Nam nên cạnh tranh ở thị trường ngách, kiểu máy bay cất hạ cánh thẳng đứng, bay chậm; máy bay không người lái (UAV, Drone) phục vụ cả quân sự, truyền thông và nông nghiệp...

Về lĩnh vực này, đã có tiến sĩ Lương Việt Quốc đi đầu, sản xuất được drone Hera có thể coi là niềm tự hào trí tuệ Việt Nam, xuất khẩu được sang cả thị trường Mỹ vốn cạnh tranh vô cùng khốc liệt.

GS.TSKH Nguyễn Đức Cương nhìn nhận Việt Nam đã làm chủ công nghệ sản xuất UAV.

GS.TSKH Nguyễn Đức Cương nhìn nhận Việt Nam đã làm chủ công nghệ sản xuất UAV.

Mới đây, vào trung tuần tháng 8 vừa qua, CT Group cũng đã ký kết được đơn hàng xuất khẩu 5.000 UAV cho Hàn Quốc.

Gần đây nhất, ngày 25.8, Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng đã công bố thành lập 3 mạng lưới đổi mới sáng tạo và chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược gồm: Lượng tử (VNQuantum), an ninh mạng (ViSecurity), hàng không - vũ trụ và thiết bị bay không người lái (UAV Việt Nam). Điều đó đã khẳng định năng lực làm chủ công nghệ sản xuất UAV của Việt Nam.

Lúc này, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy hình ảnh những UAV trên các cánh đồng Việt Nam. Hàng nghìn drone bay trên bầu trời Hà Nội. TP.HCM..., biểu diễn ánh sáng tại các lễ hội, sự kiện lớn như dịp kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước vừa qua.

Với cá nhân tôi, hồi tháng 10.2024, tôi cũng đã được cấp bằng độc quyền sở hữu trí tuệ (Patent) về “Phương tiện bay trực thăng nhẹ hơn không khí”. Phương tiện bay này được gọi là Khí cầu trực thăng UAV, kết hợp khéo léo giữa khí cầu và drone (thiết bị nhiều rô to). Điểm đặc biệt là thân khí cầu làm bằng nhựa PVC, radar rất khó dò ra được, nó bay đêm theo GPS và hoàn toàn có thể trở thành một UAV cảm tử trong quân sự.

Ví dụ, máy bay tàng hình F-35 của Mỹ có giá lên tới trăm triệu USD, nhưng với Khí cầu trực thăng UAV của tôi, giá không quá 15 nghìn USD, giá rẻ hơn rất nhiều lần, và chúng ta có thể đi vào thị trường ngách đó.

Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện cùng Tạp chí điện tử Một Thế Giới. Xin chúc ông mạnh khỏe để tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của công nghệ hàng không – vũ trụ Việt Nam.

GS.TSKH Nguyễn Đức Cương sinh năm 1945 tại Huế. Ông là con trai út của nhà văn Hoài Thanh và nhà báo Phan Thị Nga. Ông từng là Viện phó Viện Tên lửa thuộc Viện Khoa học Công nghệ Bộ Quốc Phòng. Năm 2011, khi đã nghỉ hưu, tại Đại hội lần 2 Hội Khoa học kỹ thuật Hàng không (nay là Hội Hàng không – Vũ trụ Việt Nam) ông được bầu làm Chủ tịch Hội giữ chức vụ đó cho đến năm 2021 và chuyển làm Phó chủ tịch Hội cho đến nay.

Minh Đức (thực hiện) - Ảnh: Hà Tuấn

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/gs-tskh-nguyen-duc-cuong-viet-nam-du-suc-san-xuat-uav-236874.html