Hai di tích Phật giáo quan trọng ở Đông Ấn

Có đến 14 bình đựng xá-lợi Phật được tìm thấy ở bang AndhraPradesh, và có hơn 140 địa điểm được xác định gắn liền với Phật giáo ở tiêủbang này, mà chúng có niên đại từ khoảng thế kỷ thứ III đến thế kỷ XIV Tây lịch.

Di tích Thotlakonda

Trong số này có ba di tích được xem là quan trọng, đó là Nagarjunakonda (ĐôìLong Thọ), tháp Amarāvatī, và Thotlakonda. Trong một bài viết trước (Nguyệt sanGiác Ngộ số 209) chúng tôi đã giới thiệu về Nagarjunakonda. Ở đây chúng tôi xingiới thiệu hai di tích còn lại là tháp Amarāvatī và Thotlakonda.

ThápAmarāvatī

Tháp Amarāvatī(Amarāvathī) tọa lạc tại ngôi làng Amaravathi, thuộc quận Guntur, cách thành phốGuntur khoảng 30km. Ngôi đại tháp này có niên đại vào khoảng giữa thế kỷ IIItr.TL và thế kỷ III TL. Ngôi tháp là một phần của quần thể di tích tại đây, bêncạnh các tịnh xá và điện thờ cùng những công trình khác. Trong nhiều thế kỷ, đâylà một trung tâm Phật giáo quan trọng. Nơi một bản chữ khắc được phát hiện tạiđây, ngôi tháp này trong quá khứ có tên gọi là Mahāchaitya (điện thờ lớn).

Khu quần thểchùa-tháp này nằm gần một ngôi mộ bằng đá cực kỳ ấn tượng. Một đoạn chữ khắc đượcviết bằng dạng chữ vào thời Ashoka được phát hiện tại đây đưa các nhà khoa họcđi đến kết luận rằng quần thể này có thể được kiến tạo vào thời vua Ashoka, vàđược phát triển thêm trong những thế kỷ về sau. Huyền Trang khi viếng Amarāvatīvào năm 640 đã có mô tả về nơi này, và ngài cũng ở lại đây một thời gian đểnghiên cứu về A-tỳ-đàm.

Ngôi đại thápAmarāvatī hiện tại có đường kính 50 mét, và chiều cao trong quá khứ được ướctính khoảng 27 mét. Ban đầu ngôi tháp có cấu trúc đơn giản, với các thanh xà bằngđá vôi và những chạm khắc đơn giản, nhưng về sau nó được những vị vua thuộc triêùđại Sātavāhana nâng cấp và trở thành một công trình kiến trúc quy mô. Ngài LongThọ (Nagarjuna) được cho cũng có những nỗ lực đáng kể trong việc phát triển kiếntrúc của tháp Amarāvatī.

Trong quá khứ, phần chính của tháp Amarāvatī là một mái vòm lớn. Mái vòmnày được làm bằng đá vôi màu xanh nhạt và có thể được sơn màu sáng. Phần trên củamái vòm có thể được trang trí bằng những vòng hoa được làm bằng vữa. Mặc dùkhông còn vòng hoa nào còn lại ở Amarāvatī, nhưng người ta cho rằng trước đâychúng có mặt bởi vì trên những phù điêu đá có tạc hình ngôi bảo tháp thì trênvòm tháp có những tràng hoa như vậy. Những mảnh vỡ của những tràng hoa bằng vưãcũng được phát hiện tại những ngôi tháp khác ở trong vùng.

Có chứng cứ chothấy rằng tháp Amarāvatī là một trung tâm Phật giáo có ảnh hưởng kéo dài cho đếnnăm 1344 TL. Một bản chữ khắc vào thế kỷ XIV ở Sri Lanka có đề cập đến việctrùng tu ngôi tháp này, và đây có lẽ là thông tin cuối cùng về ngôi tháp saukhi nó bị lãng quên. Vào năm 1797, khi một quan chức người Anh tên là ColinMackenzie viếng thăm nơi này thì toàn bộ ngôi tháp đã đổ sụp và tất cả nhữngtác phẩm điêu khắc đều bị hư hỏng.

Mackenzie quay laịAmarāvatī vào năm 1816 và thấy rằng những mảnh điêu khắc đã bị vứt đi hoặc đượcsử dụng lại trong những công trình xây dựng địa phương. Mackenzie bắt đầu vẽ vàghi chép về những tác phẩm điêu khắc còn lại tại địa danh này. Ông cũng gửi mộtsố tác phẩm điêu khắc đến Viện bảo tàng ở Calcutta.

Vào năm 1845, Sir Walter Elliot bắt đầu tiến hành khai quật địadanh này và thu thập được một số tác phẩm điêu khắc. Công việc khai quật cũngđược Robert Sewell thực hiện. Nhóm khảo cổ của Sewell ghi chép và phác thảo khákỹ về địa danh này và có một tường trình được viết sau đó về công việc khai quật.

Vào cuối thế kỷ XIX, hầu hết những tác phẩm điêu khắc chính cuaẢmarāvatī đều bị đưa đi khỏi di tích này và được chuyển đến các viện bảo tàng.Hầu hết những tác phẩm điêu khắc hiện được lưu giữ tại viện bảo tàng ở Chennaivà tại chính Amarāvatī. Nhiều tác phẩm cũng được đưa đến Viện bảo tàng Anh(British Museum). Có đến 120 tác phẩm điêu khắc và bản chữ khắc được lưu giữ tạibảo tàng này. Bộ sưu tập Amarāvatī ở Viện bảo tàng Anh cũng còn được gọi laÈlliot Marbles, do những tác phẩm này có liên hệ đến Sir Walter Elliot trong nhữngnăm thập niên 40 thế kỷ XIX.

Nhiều nhà khảo cổ học đã tiếp tục khai quật tại Amarāvatī vào thế kỷ XX. Mặcdù hầu hết những công trình điêu khắc chính đã bị đưa đi khỏi di tích, nhiều phầnquan trọng vẫn còn.

Những sử gia nghệthuật xem nghệ thuật Amarāvatī là một trong ba trường phái nghệ thuật lớn củanghệ thuật Ấn Độ cổ đại, hai trường phái khác là Gandhara và Mathura. Trườngphái nghệ thuật này bắt đầu vào thế kỷ III tr.TL. Một số tác phẩm điêu khắc Phậtgiáo ở Amarāvatī cho thấy chịu ảnh hưởng nghệ thuật Hy Lạp-La Mã mà đó là kếtquả của sự tiếp xúc qua việc giao thương và bang giao giữa Nam Ấn và những ngươìLa Mã cổ đại. Trường phái nghệ thuật Amarāvatī giữ một vị trí quan trọng tronglịch sử nghệ thuật Ấn Độ. Bắt đầu vào thế kỷ thứ III tr.TL, trường phái này ghilại dấu ấn sâu đậm qua những tác phẩm điêu khắc tại tháp Amarāvatī.

Ở nghệ thuật Amarāvatī thời kỳ đầu, Đức Phật được mô tả bằng những biêủtượng, đặc biệt là chữ vạn (swastika). Biểu tượng này được tạc trên toàngồi được đặt dưới cội bồ-đề. Biểu tượng này cũng được tìm thấy trên các trụđá. Ở giai đoạn về sau, trường phái Amarāvatī mô tả Đức Phật trong hình thứccon người. Trường phái Amarāvatī có sự ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật điêu khắc ởNam Ấn. Những tác phẩm điêu khắc được phát hiện tại Jaggayyapeta,Nagarjunakonda, Goli và Amarāvatī là những bằng chứng. Trường phái nghệ thuậtAmarāvatī cũng có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật ở Sri Lanka và Đông Nam Á khi nhữngtác phẩm điêu khắc ở đây được mang đến những quốc gia đó.

Chủ đề miêu tảtrong những tác phẩm điêu khắc bao gồm con người, thú vật, cây cối, hoa lá...Những câu chuyện liên quan đến cuộc đời của Đức Phật cũng được miêu tả ở đây.Bên cạnh đó, những câu chuyện tiền thân (Jātaka) cũng là những chủ đề của điêukhắc. So với những tác phẩm điêu khắc tại những di tích ở Trung Ấn như Sanchivà Bharhut, những cảnh được khắc chạm tại Amarāvatī nhìn ít rối hơn và các nhânvật được miêu tả tự nhiên và thanh nhã hơn. Các tượng người thường thanh mảnh,khuôn mặt bầu với những đường nét rõ ràng, tinh tế.

Có 160 bảng chữ khắc được phát hiện tại Amarāvatī và 108 trong đó đề cập đếnviệc cúng tiến kiến thiết công trình này. Nhiều trong số những bản chữ khắc nàycó niên đại thế kỷ II và III TL, và 11 bản thậm chí có niên đại sớm hơn. Tăngvà Ni chiếm đa số trong những người hiến cúng. Thuật ngữ được sử dụng để chỉcho Tăng Ni là Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni, nhưng thỉnh thoảng cũng có một số thuậtngữ khác được sử dụng như “người xuất gia” (pavajita) hay khất sĩ nam (samanạ),khất sĩ nữ (samanịka). Sau những người xuất gia là những nữ nhân và nhữngnhóm thương nhân. Thuật ngữ “gia chủ” (gahapati) được sử dụng để chỉ chonhững thí chủ tại gia. Điều này cho thấy rằng Amarāvatī trong quá khứ là mộttrung tâm Phật giáo có tiếng tăm, và điều đó khiến nhiều Tăng Ni góp phần hiếncúng kiến tạo những công trình ở đây. Một bản chữ khắc ở đây có niên đại thế kyỈI TL đề cập đến việc cúng dường cho phái “Cetiya” (Caitika: Chế Đa Sơn bộ); vàđiều này cho thấy rằng vào thế kỷ II TL, tháp Amarāvatī có thể do phái Caitiyaquản lý.

Theo những nguồn tài liệu truyền thống của Phật giáo Kim Cương thừa, ĐứcPhật đã từng thuyết giảng tại Dharanikota (Dhanyakatakam, gần Amarāvatī) vàcũng thực hiện nghi lễ “Kalachakra” (Kim cương thời luận) tại đây. Taranatha, mộtTăng sĩ người Tây Tạng, viết trong cuốn Lịch sử Phật giáo của ông rằng:“Vào ngày trăng tròn tháng Chaitra vào năm tiếp theo sau khi chứng ngộ, tại đạitháp Dhanyakataka, Đức Phật đã phóng ra mandala Kalachakra”. Miêu tả này hẳn chỉđược chấp nhận trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng mà khó được những truyềnthống Phật giáo khác cũng như các sử gia chấp nhận. Tuy nhiên miêu tả này chothấy rằng Dhanyakatakam là một nơi rất có ý nghĩa đối với Kim Cương thừa, nơihình thành nên giáo thuyết đặc biệt quan trọng của Phật giáo Mật tông là “Kimcương thời luận”. Có lẽ vì lý do này mà vào năm 2006, ngài Dalai Lama đã tiếnhành xây dựng một viện Kalachakra ở vùng này.

Tháp Amarāvatītrong quá khứ là ngôi tháp cổ lớn nhất ở Andhra. Tuy nhiên, do vì việc khai quậtbừa bãi và việc di chuyển những tác phẩm điêu khắc ra khỏi địa danh này từ thếkỷ XVIII, hiện những gì còn lại tại di tích này là nền móng của một ngôi tháp bằnggạch, con đường kinh hành xung quanh và một vài trụ cột của rào chắn. Tuy vậy,Amarāvatī vẫn là một nơi cần viếng thăm khi đến Andhra Pradesh.

Thotlakonda

Thotlakonda làdi tích Phật giáo khá nổi tiếng ở Ấn Độ, nhưng lại tương đối ít được biết đến đôívới Phật tử các nước khác. Di tích này tọa lạc trên một ngọn đồi gần ngôi làngMangamaripeta thuộc thành phố Bheemunipatnam (cũng gọi Bheemli), cáchVisakhapatnam - thành phố lớn nhất của bang Andhra Pradesh, 16km. Thotlakonda từnglà một trung tâm Phật giáo quan trọng ở Nam Ấn từ thế kỷ II tr.TL đến thế kỷ IITL. Từ sau thế kỷ III, Thotlakonda bắt đầu rơi vào thời kỳ suy tàn và bị lãngquên mãi cho đến cuối thế kỷ XX, khi nó tình cờ được hải quân Ấn Độ phát hiệntrong một lần cơ quan này khảo sát từ trên không để tìm nơi đặt căn cứ hảiquân.

Tên gọiThotlakonda phát xuất từ sự có mặt của một số bể nước bằng đá tại đây mà chưTăng trước đây đã kiến tạo để lưu trữ nước cho việc sinh hoạt của họ. Trong tiếngTelugu - một ngôn ngữ của người bản địa Dravidian ở Nam Ấn, “thotla” có nghĩalà “bể” (nước) và “konda” có nghĩa là “ngọn đồi” (đá). Nghĩa đen của từThotlakonda do đó là “ngọn đồi có những chiếc bể nước bằng đá”. Trung tâm nàyhình thành và phát triển vào thời kỳ Phật giáo bộ phái, khi tín ngưỡng thờ thápphổ biến và tín ngưỡng thờ tượng Phật chưa có mặt.

Trong quá khứ,Thotlakonda đóng chức năng như một trung tâm học thuật quan trọng của Phật giaoớ̉ Đông Ấn. Chư Tăng của các nước như Trung Quốc, Miến Điện, Sri Lanka… được chođã từng thăm viếng và ở lại tu học ở nơi này. Do vị trí tọa lạc gần một bờ biểntrọng yếu trong việc giao thương, nó cũng là căn cứ cho việctruyền bá Phật giáo ra các nước bằng đường biển theo các phái đoàn truyền giáohoặc kết hợp với các đoàn thương nhân.

Nói đến Thotlakonda, gợi nhắc ta nhớ đến Kalinga, một địa danh đóng vaitrò quan yếu trong việc truyền bá Phật giáo đến Sri Lanka, Miến Điện và nhữngnơi khác. Sự thực, Thotlakonda là một trong số những trung tâm Phật giáo có ảnhhưởng ở Kalinga vào thời kỳ đầu. Lãnh thổ của vương quốc Kalinga xưa hiện naylà phần lớn bang Odisha và khu vực phía Bắc của bang Andhra Pradesh.

Kalinga có sự nôíkết đặc biệt với vị hoàng đế vĩ đại Ấn Độ, Ashoka (A Dục). Cuộc chiến Kalinga xảyra vào năm 261 tr.TL mà nó khiến cho hàng vạn người thiệt mạng đã trở thành mộtsự kiện đặc biệt trong lịch sử Ấn Độ cổ đại. Cũng chính sau cuộc chiến này, vuaAshoka, từ một người được gọi là Chandasoka (Ashoka tàn bạo) đã trở thànhDhammasoka (Ashoka nhân từ/ Ashoka sống theo pháp) sau khi ông quy y theo Phậtgiáo. Và cũng nhờ vào sự bảo trợ của ông sau khi quy y, Phật giáo đã được truyềnbá khắp cõi Ấn Độ và đến một số nước khác.

Nhưng mối liên hệ giữa Phật giáo và Kalinga đã bắt đầu vào thời Đức Phật.Theo Anguttara Nikaya, hai vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật, Tapusa vàBhallika, là những thương nhân buôn mật ong xuất thân từ xứ Ukkala (trong quákhứ Kalinga cũng còn có tên là Odra và Ukkala). Trên đường đến Madhyadesa vơí500 cỗ xe bò, họ đã gặp Đức Phật tại Bodhgaya và đã cúng dường cho Ngài một ítbánh gạo với mật ong. Đức Phật sau đó ban cho họ tám sợi tóc của Ngài, và sốtóc này được họ tôn trí trong một ngôi tháp ở quê nhà của mình ở Ukkala. Ngôitháp này về sau được gọi là Kesa Stupa (kesa có nghĩa là tóc). Khai quật gầnđây tại Tarapur ở quận Jajpur đã phát hiện ra ngôi tháp Kesa. Ngôi tháp này cũngđược cho biết được xây dựng với sự phát tâm của Tỳ-kheo Tapusa. Hai trụ cột đượcphát hiện tại di tích này có khắc dòng chữ ‘Kesa Thupa’ và ‘Bheku TapusaDanam’. Theo truyền thuyết, Đức Phật được nói đã đến nơi này theo lời mời củaTapusa và Bhallika.

Nhưng theo truyền thống Miến Điện, hai anh em thương nhân Taphussa vàBhallika đến từ Afghanistan (một phần của xứ Bactria/Đại Hạ xưa) và sau khi nhậnđược số tóc trên họ đã mang về quê hương của họ xây tháp phụng thờ; về sau sốtóc này (không rõ vì lý do gì) được đưa đến Miến Điện và hiện được tôn trí tạitháp Shwedagon ở Yangon. Còn theo những biên niên sử của Sri Lanka, hai anh emthương nhân Thapassu và Bhallika, trong khi trên đường đến Rājagaha (Rajgir,Vương-xá), đã gặp Đức Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng (Budhagaya). Họ cúng dường thựcphẩm lên Đức Phật và sau đó quy y trở thành đệ tử của Ngài. Theo lời thỉnh câùcủa họ, Đức Phật trao cho họ tám sợi tóc của Ngài. Họ sau đó đến Thiriyaya (miềnĐông bắc Sri Lanka), và tại đây, một số tóc mà họ mang theo được tôn trí ởtrong một ngôi tháp trên một ngọn đồi mà hiện nay được gọi là Girihandu Seya.Đây được xem là ngôi tháp đầu tiên ở Sri Lanka.

Trong những câuchuyện Jātaka, Dantapura được đề cập là kinh đô của vương quốc Kalinga. TừDantapura, xá-lợi răng Phật đã được mang đến Sri Lanka. Truyền thống này đãhình thành nên một mối liên hệ đặc biệt giữa Kalinga và Sri Lanka. Ngài HuyềnTrang khi viếng Kalinga vào năm 639, cho biết rằng có hơn 100 tu viện Phật giaoớ̉ Trung Kalinga (ngày nay bao gồm các quận Jajpur, Kendrapara và Cuttack củabang Odisha). Ngài Huyền Trang đã không đến Thotlakonda, vì vào thế kỷ thứ VII,di tích này đã suy tàn và rơi vào lãng quên.

Việc khai quật Thotlakonda được thực hiện vào những năm 1988-1992. Mộtsố bảo tháp (stupa), điện thờ (chaitya) và nơi ở dành cho chưTăng (vihara: tịnh xá) được phát hiện trong đợt khai quật này. Ngoài ra,nhiều bể chứa nước bằng đá có hình dạng như những giếng nước cũng được tìm thâyớ̉ đây. Trong số 12 bể chứa nước, có bốn bể nằm bên trong quần thể và số còn lạinằm ở bên ngoài, tuy nhiên cách không quá xa quần thể này. Một số học giả cho rằngnhững Tăng sĩ sống ở Thotlakonda rất am tường về thuốc và việc trị bệnh. Nhữngtinh dầu được chiết xuất từ thảo mộc còn vương lại trên đất được phát hiện trênngọn đồi này đã khiến các học giả đi đến kết luận đó. Và một số trong những bểđá này có thể là nơi các thầy sử dụng trong việc pha chế thuốc.

Ngoài những chùa tháp và bể nước, việc khai quật ở đây cũng phát hiệnnhững đồng tiền bạc La Mã, điều này cho thấy rằng vào thời đó những đoàn thươngbuôn nước ngoài đã đến đây. Ngoài ra, những đồ vật trang trí bằng đất nung, nhữngbức phù điêu bằng đá tạc hình bảo tháp, bàn chân Phật cũng được phát hiện. Việckhai quật cũng phát hiện một số bản khắc chữ bằng tiếng Brahmi. Không có tôn tượngPhật nào được phát hiện tại đây. Đức Phật vào thời kỳ này chưa được thể hiện bằnghình nhân, mà chính yếu được tượng trưng qua các biểu tượng, chẳng hạn như bànchân Phật.

Những nghiên cứu cho thấy rằng, không giống như một số quần thể tu việnkhác ở Nam Ấn, việc kiến tạo quần thể này không có sự đóng góp của giới vuachúa, mà sự hỗ trợ chính yếu đến từ các thương nhân và những tín đồ địa phương.Từ lúc hình thành cho đến khi suy tàn, trung tâm Phật giáo này đã tồn tại 400năm. Như vậy so với những trung tâm Phật giáo khác ở Ấn Độ, tuổi thọ của nókhông thực sự quá dài. Các sử gia cho rằng nguyên nhân đưa đến sự suy tàn củatrung tâm này là do sự trỗi dậy của Ấn giáo ở đây và sự suy tàn của thương mạiđường biển.

Thotlakonda hiện do Hội Khảo cổ học Ấn Độ quản lý.Tuy nhiên, cũng như nhiều di tích Phật giáo khác ở Ấn Độ, quần thể này hình nhưkhông được quan tâm nhiều. Những kiến trúc được phát hiện trông có vẻ không đượcbảo quản tốt và đang ở trong tình trạng xuống cấp. Bên cạnh, cảnh quan ở đây dườngnhư cũng thiếu sự chăm sóc của con người. Nhưng dù trong tình trạng như vậy, nhữnggì được nhìn thấy ở đây vẫn thật sự gây ấn tượng. Những nền móng tịnh xá, bảotháp, giếng nước bằng đá… dù nằm lặng lẽ trên ngọn đồi trơ trọi và đang bị thơìgian bào mòn dần, vẫn là những thứ thật đáng để chiêm bái nếu ta có dịp đếnAndhra Pradesh.

Nguyễn Đăng

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/vanhoa/2019/07/14/7f66c2/