Hai nghĩa của nghiệp

Luậtnghiệp (karma) là một nguyên lý cơ bản của thế giới quan Phật giáo. Nói vắn tắt, nghiệp đề cập đến quan điểm rằngnhững hành động có tác ý sẽ tạo ra những kết quả có ảnh hưởng đến đời này và nhữngđời sau. Thực sự, chính nghiệp dẫn đến sự tái sanh. Giới Phật tử nghĩ nghiệp làmột sự biểu hiện khác của nguyên lý duyên khởi, nguyên lý nhân quả, theo đó, mọithứ tồn tại và phát triển nhờ vào những điều kiện cụ thể. Với nghĩa này, luậtnghiệp là một loại luật tự nhiên, hành động dẫn đến kết quả một cách tự nhiên,không có sự can thiệp của một đấng thần linh nào.

Luật nghiệp vũ trụ là vấn đề thuộc về tín ngưỡng tôn giáo, Ảnh minh họa

Đức Phật đã nhấn mạnh rằnghành động chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả tương ứng:

Không trên trơìdưới biển

Không lánh vào độngnúi

Không chỗ nàotrên đời

Trốn được quả ácnghiệp(1).

Đạo Phật truyền thốngđã đưara những giáohuấn về đạo đức, trong đó phần lớn nói về tính tất yếu của nghiệp quả. Nhữnghành động tội lỗi như giết hại, trộm cướp, nói dối… là các nghiệp xấu và sẽ dẫnđến tái sinh trong hàng hạ tiện, đọa xứ hay địa ngục. Trái lại, những việc làmtốt như bố thí (đặc biệt là cúng dường cho chư Tăng) sẽ tạo ra phước lành và dẫnđến sự tái sinh vào cáccảnh giơítốt lành: loài người ở bậc tôn quýhoặc các cõi trời. Những Phật tử phương Tây, khi xemxét những lời dạy truyền thống về nghiệp, thì nhìn chung thiên về tìm hiểu luậtnghiệp ở khía cạnh tâm lý, như một lời nhắc nhở rằng những hành động tốt sẽ đưađến những trải nghiệm an vui trong đời này và những hành động xấu sẽ dẫn đến nhữngkhổ đau. Mục đích của tôi ở bài viết này là chúng ta cần nên hiểu rằng từ “nghiệp”ở đây được sử dụng theo hai cách và có hai ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. NhữngPhật tử truyền thống có thể không lưu tâm đến điều này nhưng đối với đạo Phật ở phương Tây lạirất quan trọng.

Tôi sẽ phân biệthai nghĩa của nghiệp là nghiệp tâm lý và nghiệp vũ trụ (tức nghiệp như một luậtvũ trụ). Khi những người phương Tây nói về luật nghiệp, họ thường chỉ nghĩ đếnmột nghĩa, đó là nghĩa tâm lý nghiệp. Theo nghĩa này luật nghiệp chung quy lànhững hành động có tác ý của thân, khẩu, ý, là tác nhân dẫn đến các trạng tháitâm lý. Những hành động thiện lành sẽ mang đến trải nghiệm tích cực trong quátrình tu dưỡng, và những hành động xấu ác sẽ dẫn đến những trải nghiệp tiêu cực.Ví dụ, nếu tôi đến các tự viện và cúng dường tịnh tài, tịnh vật cho các TăngNi thì việc bố thí này sẽ mang đến những kết quả rất khả quan: tôi cảm thấy vuivẻ hơn bởi sự quan tâm thường ngày đã vượt ra giới hạn của bản thân; tôi cảm thâýhứng khởi bởi vì việc cúng dường cho các tu sĩ đã giúp tôi kết nối với những vịhành trì pháp; tôi cảm thấy cuộc đời của tôi có ý nghĩa hơn bởi vì việc bố thínhìn chung có thể khiến tôi liên kết với Tăng đoàn. Ngược lại, nếu như tôi thườngtrốn thuế hay trộm những gói cà-phê ở nơi làm việc thì chắc chắn hậu quả là tôicảm thấy bất an bởi lo lắng thanh tra sẽ bắt tôi hay người quản lý nhà bếp tạinơi tôi làm việc sẽ để ý đến việc trộm cắp của tôi; tôi cảm thấy bất an vì tôiphải đề phòng những người mà tôi thâncận, đặc biệt là tại nơi tôi làm việc; tôi cảm thấy cuộc sống của mình là một cuộc vật lộn, bởi vì khônglúc nào tôi cảm thấy thư thái với tâm tốt lành được.

Tâm lý nghiệp cựckỳ quan trọng, đólà lý do vì sao việc tuân thủ đạo đức lại dẫn đếnkết quả tốt đẹp và bản thân thấy vui vẻ, hạnh phúc và hòa đồng với mọi người.Đây chính là nền tảng cơ bản cho sự tiến bộ xa hơn trên con đường tu Phật. Mặtkhác, một vấn đề nữa đáng lưu ý rằng đạo đức Phật giáo dựa trên chân lý: “Mọihành động đều đưađến kết quả”. Nhưng một hành động thiện lành sẽ đưa đến kết quả tốtcho tất cả mọi người chứ không riêng gì bản thân mình. Các quy tắc đạo đức đượcrút ra từ luật nghiệp. Nhưng cũng đừng bao giờ xem tâm lý nghiệp của mỗi ngươìlà hệ quả duy nhất đưa đến hành động của chúng ta, mà có lẽ đối với nhiều người,hứa hẹn về một hạnh phúc lớn lao hơn đóng vai trò như một động lực để trở nên tốtđẹp hơn.

Tuy nhiên, khinhững Phật tử truyền thống nói về luật nghiệp, họthường nghĩ về một nghĩa khác với tâm lý nghiệp, điêùmà tôi gọi là nghiệpvũtrụ. Nơi nghĩa thiên nhiều hơn về truyền thống này, luật nghiệp nói về sự công bằng đạo đức phổ quát: những hành động có tác ý của thân, khẩu,ý sẽ đưa đến kết quả ngay trong đời này hoặc có thể trong những kiếp sau. Theoluật nghiệpvũ trụ, nếu tôi thườngthăm viếng các tự viện và cúng dường Tăng Ni thì hành động bố thí ấy sẽ tạo raphước báu. Phước báu ấy sẽ ảnh hưởng đến tôi một cách tích cực trong đời sốngnày. Và sau khi tôi mất, tôi sẽ thọ lãnh một đời sống mới tốt đẹp hơn, có thểlà trong một gia đình giàu có, một đất nước Phật giáo hay các cõi trời. Trái lại,khi tôi trốn thuế hay ăn trộm cà-phê, thì những hành động xấu xa ấy sẽ dẫn đếntội lỗi. Và sau khi tôi mất, nó sẽ dẫn tôi tái sanh vào một đời sống mới thấphènhơn, có thể tronggia đìnhtrộm cướp, haytrở thành ngươìthu thuế hay ngươìtrồng cà-phê, mà cũng có thể là địa ngục.

Luật nghiệp vũtrụ là một phần của vũ trụ quan Phật giáo. Chúng sanh luân hồi trong các nẻo:trời, người, súc sanh, địa ngục tùy vào nghiệp của họ. Do thế giới thay đổi nêntất cả chúng sanh liên tục sinh ra và chết đi, nhưng kết quả của hai loại hànhđộng xấu và tốt chỉ kéo dài trong khoảng thời gian nhất định trước khi họ suykiệt. Vậy nên chư thiên có thể bị đọa, mà chúng sanh dưới địa ngục lại có thể tìm con đường trở về với ánh sáng củanhân gian, tất cả đều thông qua luật nghiệp.Nghiệp vũ trụ này làmộthệ thống công bằng của vũ trụ, nhờ đó mà đạo đức không bị chìm vào quên lãng,mà nơi bản ghi chép sự việc, những phẩm chất đạo đức của họ sẽ được bảo tồn chođến khi vũ trụ ban thưởng hay trừng phạt những người làm thiện hay ác.

Tôi cho rằng đạo Phật truyền thống chưa bao giờ phân biệt hai nghĩa nàynơi luật nghiệp, vũ trụ và tâmlý. Tôi nghĩ lý dolà vì quan điểmnghiệp vũ trụ bắt nguồn từ tư tưởng tôn giáo và triết học của nhữngngười Ấn Độ cổ đại, không phải khởi nguyên từ một học thuyết tâm lý nào. Theo đạoBà-la-môn trước thời Đức Phật, nghiệp mang nghĩa là những hoạt động nghi lễ. Vídụ, người con trai phải thể hiện nghi lễ trong đám tang của cha mình để chắc chắnrằng người chết đã đi về với tổ tiên. Những nghi lễ như vậy bao gồm nhiều mục.Người ta tin rằng thể hiện đúng đắn nghi thức sẽ tác động đến bản thể của vũ trụ.Khoảng vào thời Đức Phật, đạo Kỳ-na (Jainism) hình thành một khái niệmmới về nghiệp. Theo họ, nghiệp là một loại vật chất bám lấy linh hồn của một ngươìvà giúp người đó tồn tại và phát triển. Nghiệp lành thì trong sạch hơn nghiệp xấu,nhưng tốt hơn cả lại là vô nghiệp. Lại nữa, sự ảnh hưởng của nghiệp vốn có mặtnơi bản thể của vũ trụ. Nhưng bấy giờ sự ảnh hưởng này đã được cá nhân hóa và đạo đức hóa. Thế rồi Đức Phật đã trao choquan điểm nghiệp cá nhân và đạo đức này một chiều hướng tâm lý, do đó loại nghiệp quan trọngnhất là ý định của tâm thức, nó không phải là một dạng vật chất mà là một cáigì đó trừu tượng(2).

Như vậy, mặc dùnghĩa tâm lý của nghiệp luôn luôn là một phần trong lời dạy của Đức Phật, nó vẫnchưa được tách biệt ra khỏi nghĩa vũ trụ. Nhưng dĩ nhiên, hai ý nghĩa này củanghiệp có những hàm ý rất khác nhau. Nghiệp vũ trụ là quan điểmcủa tín ngưỡng tôn giáo, người bình thường không thể hiểu đượcsự vận hành của nó, vì Đức Phật đã dạy sự vận hành của nghiệp là bất khả tưnghì. Chúng ta chỉ có thể tin tưởng một cách đơn giản rằng đó chính là cách vậnhành của vũ trụ. Hơn nữa, nghiệp vũ trụ gắn liền với niềm tin, không chỉ trongvấn đề tái sinh mà còn nhiều cảnh giới tồn tại trong vũ trụ quan Phật giáo. Tómlại, luật nghiệp vũ trụ là vấn đề thuộc về tín ngưỡng tôngiáo.

Ngược lại, luật nghiệp tâm lý không phải là vấn đề của niềm tin, mà làthứ chúng ta có thể tự quan sát và thực nghiệm. Thực sự, nhờ những lỗi lầmtrong quá khứ, đa số chúng ta có kinh nghiệm kha khá về việc làm các hạnh lànhvà tránh các điều xấu ác. Nhưng hầu hết, luật nghiệp tâm lý thách thức trựcgiác của các giác quan cũng như dễ dàng thử nghiệm qua những việc làm thực tế.Hành động tốt sẽ đưa đến kết quả tốt, kết quả ấy có thể thực nghiệm bây giờ vàtại đây, điều đó dường như đã trở thành một phần trong giáo pháp của Đức Phật,thiết thực hiện tại, vượt thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượngvà được người trí chứng hiểu.

Theo tôi, những Phật tử phương Tây nhìn chung có khuynh hướng thiên vềluật nghiệp tâm lý. Điều này đưa đến cảm nhận rằng luật nghiệp tâm lý thì thựctiễn, mang tính kinh nghiệm hơn. Luật nghiệp vũ trụ thì ngược lại, mang màu sắctín ngưỡng và thực sự suy đoán trừu tượng, bởi vì những hiểu biết của chúng tavề nó phụ thuộc vào Phật giáo truyền thống. Đối với tôi, có vẻ như nghĩa củanghiệp vũ trụ không thích hợp thế giới quan của khoa học ngày nay, và bởi lý donày, nhiều Phật tử Tây phương không tin vào luật nghiệp gắn liền với vũ trụ.Trong khi đó, luật nghiệp như lời dạy về tâm lý một cách rõ ràng là trọng tâm củakhái niệm về pháp. Vì vậy, việc phân biệt giữa nghĩa tâm lý và vũ trụ của luậtnghiệp thực sự quan trọng để chọn ra những gì khác biệt của đạo Phật ở phươngTây.

Dhivan Thomas Jones – Nhuận Ngọc dịch

___________________________

(1) Kinh Pháp cú,kệ 127.

(2) Trong Whatthe Buddha Thought, Richard Gombrich đãtruynguyên những nguồn gốc của lời dạy về nghiệp của Đức Phật ở trong truyền thốngBà-la-môn và Kỳ-na giáo, Equinoxe, London, 2009.

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/chuyende/2019/07/15/7b64c2/