Hành trang vào đời

Trong cuộc sống, mỗi người đều cần trang bị cho mình những điều kiện cần và đủ để bước đi trên cuộc đời. Người học Phật trong thời đại 4.0 cũng cần chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết để có thể an nhiên, giải thoát và vững chãi trong hoằng hóa, phụng sự.

Kinh Tăng chi bộ (chương Năm pháp, XI. An ổn trú), Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này các Tỷ-kheo! Có năm pháp này làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Thế nào là năm? Ở đây, này các Tỷ-kheo! Tỷ-kheo có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có tinh cần tinh tấn, có trí tuệ… Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, là các pháp làm cho bậc hữu học không sợ hãi”. Qua lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, chúng ta có thể thấy ra năm pháp trọng yếu mà mỗi hành giả tu Phật trong thời đại ngày nay cần phải có, đó là: đạo đức, định lực, nhẫn nhục, trí tuệ và học vấn.

Đạo đức

Đạo đức chính là giới. Theo lời Phật dạy, giới là một trong năm pháp giúp cho bậc hữu học không sợ hãi. Người có giới luật hộ thân thì tự nhiên biểu hiện bên ngoài đầy đủ oai nghi phẩm hạnh, an nhiên trước đại chúng.

Nói đến giới thì có nhiều tầng bậc khác nhau. Người tại gia giữ 5 giới, xuất gia thọ Sa-di thì giữ 10 giới, Tỳ-kheo thọ trì 250 giới, Tỳ-kheo-ni giữ 348 giới,… Tuy có nhiều hình thức khác nhau nhưng căn bản đều dựa trên năm giới. Năm giới này là nền tảng quyết định đạo đức của con người trong bất kỳ thời đại nào.

Hòa thượng Minh Giáo Khế Tung (đời Tống) từng dạy: “Tôn không có gì tôn hơn đạo, đẹp không có gì đẹp hơn đức. Giữ được đạo đức, tuy là người thất phu nhưng không phải là kẻ cùng khổ…”. Thật vậy, ngẫm lại xưa nay, chưa thấy có một ai được sử sách lưu danh, người đời kính trọng mà khiếm khuyết đạo đức. Đạo đức là nền tảng căn bản không thể thiếu của con người, đối với người xuất gia lại càng xem trọng. Trên từ chư Phật, chư vị Tổ sư, cho đến hiện tại các bậc tôn túc đều dạy lấy giới làm trọng; giới là trang sức làm đẹp tự thân, người giữ giới được trời người kính trọng. Nghiệm lại lời dạy của Hòa thượng Minh Giáo Khế Tung, chúng ta có thể hiểu, giữ được đạo đức tức là giữ giới. Người giữ giới luật thì dù chỉ là một vị Tăng quê, không chức vị bằng cấp nhưng lại là chỗ dựa tinh thần cho hàng Phật tử. Đó chính là dĩ đức độ nhân, dụng thân giáo hóa. Cho nên, Phật dạy:

“Hương các loại hoa thơm

Không bay ngược chiều gió

Nhưng hương người đức hạnh

Ngược gió khắp tung bay

Chỉ có bậc Chân nhân

Tỏa khắp mọi phương trời” (PC. 54).

Thế nên, cho dù thế giới có phát triển đến đâu, dù là thời đại 4.0 hay 5.0 đi chăng nữa, thì đạo đức vẫn luôn gắn liền với con người; là chất liệu quý, là hành trang không thể thiếu để chúng ta sải bước tự tin giữa thế giới này.

Định lực

Đối với hành giả đang đi trên lộ trình hướng đến giác ngộ, giải thoát, định lực là yếu tố không thể thiếu. Định lực chính là kết quả của một quá trình thực hành thiền định. Quá trình này, Đức Phật dạy phải “có tinh cần tinh tấn”. Tức là phải siêng năng thực hành pháp, thực hành thiền mỗi ngày và liên tục; ví như cọ cây lấy lửa, cần siêng năng, bền bỉ liên tục thì định lực mới phát khởi.

Vốn dĩ, cuộc sống luôn là một sự vận động không ngừng. Chẳng phải xuất gia rồi thì đình chỉ mọi công việc, mọi hoạt động. Ngược lại, có khi xuất gia rồi việc lại thêm nhiều. Thế nên, cổ nhân nói: “Cà-sa vị trước sầu đa sự, trước liễu cà-sa sự cánh đa”. Lúc còn tại gia, cho rằng việc quá nhiều khó bề tu tập thiền định. Đến khi xuất gia rồi, thừa hành các Phật sự, làm trụ trì, giảng sư, đi từ thiện, tổ chức khóa tu,… khi ấy mới nhận ra rằng “khoác áo cà-sa việc thêm nhiều”. Lúc này phải làm sao? Nhị tổ Pháp Loa nói: “Trong hai mươi bốn giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không dấy động. Tâm không dấy động nên cảnh đến vẫn an nhàn”1. Phải sống, hoằng pháp, hoàn thành các Phật sự bằng tâm thiền. Làm tất cả việc phụng sự chúng sinh mà tâm không đắm trước. Thế mới nói, sống là động nhưng lòng luôn bất động.

Cho nên, dù ở thời đại nào, người xuất gia đều cần phải thiết lập sức định tĩnh. Tâm an thì trí sáng. Người có định lực thì có thể tự tại, tùy duyên, điềm tĩnh chuyển hóa được nghịch cảnh.

Đối với hành giả đang đi trên lộ trình hướng đến giác ngộ, giải thoát, định lực là yếu tố không thể thiếu. Định lực chính là kết quả của một quá trình thực hành thiền định. Quá trình này, Đức Phật dạy phải ‘có tinh cần tinh tấn’. Tức là phải siêng năng thực hành pháp, thực hành thiền mỗi ngày và liên tục; ví như cọ cây lấy lửa, cần siêng năng, bền bỉ liên tục thì định lực mới phát khởi.

Nhẫn nhục

Cõi Ta-bà còn gọi là cõi kham nhẫn. Vì cõi này có quá nhiều điều bất như ý nên cần có sức nhẫn. Đối với người xuất gia, nhẫn nhục là thượng hạnh để trang nghiêm tự thân. Nhẫn lực càng cao tức định lực càng lớn. Người có sự nhẫn nại thì mới có thể bao dung, che chở, nâng đỡ người khác.

Vì mọi người đang trên con đường thực hành chánh niệm, còn là chúng sinh, nên việc gây lỗi lầm, làm phiền nhiễu đến người khác là điều không thể tránh khỏi. Người xuất gia tiếp duyên xúc cảnh mỗi ngày, việc đối mặt với những “Bồ-tát nghịch hạnh” là điều hiển nhiên. Vậy nên, cần tu hạnh nhẫn nhục để chuyển hóa nghịch duyên.

Đức Phật dạy: “Ở thế gian này, chẳng phải hận thù trừ được hận thù, chỉ có từ bi trừ được hận thù. Đó là định luật ngàn thu” (PC. 5). Nghĩa là, nếu lấy hận thù đáp trả hận thù, thì oan oan tương báo, thù hận chất chồng. Ngược lại, dùng lòng từ bi, nhẫn nhục để đáp trả người gây chướng ngại cho mình, thì mới có thể xóa bỏ được thù hận. Trả thù kẻ hại mình bằng tình thương và lòng bao dung. Đáp trả kẻ gây khó dễ cho mình bằng cách không gì cả. Đó chính là hạnh nhẫn nhục Ba-la-mật.

Trí tuệ

Đoạn kinh trên, Đức Phật nói về hai pháp giúp bậc hữu học không sợ hãi là có lòng tin và có trí tuệ. Trí tuệ muốn nói đến ở đây là trí tuệ vô sư; có lòng tin tức là tự tin mình cũng có trí vô sư, có đủ khả năng tu hành giác ngộ, thành Phật.

Hòa thượng Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm dạy: “Chúng ta tu thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư”2. Nghĩa là, mỗi người đều sẵn có trí vô sư, chưa từng thiếu vắng; chỉ vì vọng tưởng che khuất nên chưa thể vận dụng linh hoạt. Tuy nhiên, trí tuệ Phật vẫn luôn sáng ngời, ví như mây đen che khuất mặt trời, chứ mặt trời chưa từng tắt nắng. Bằng cách lắng tâm, buông niệm, nhận lại bản tâm rỗng sáng thì mặt trời trí tuệ hiện tiền.

Dù là thời Phật tại thế, thời tượng pháp hay thời mạt pháp, cho đến mãi về sau, trí này vẫn không khác. Vì sao không khác? Vì tính bản hữu của trí tuệ vô sư là như như, thường biết, thanh tịnh, phi đối đãi.

Học vấn

Một trong năm pháp khiến bậc hữu học không sợ hãi đó là “có nghe nhiều”. Nghe nhiều tức là đa văn, là chỉ cho người để tâm đến vấn đề học tập. Hòa thượng Đại Giác Liễn (đời Đường) từng nói: “Vật không giũa không thành đồ hữu dụng, người không học không biết đạo… Xem qua sự lập thân nổi tiếng ở đương thời của các bậc tiền bối ít có ai là không do sự học vấn mà thành đạt được”.

Nói đến vấn đề học tập, đối với người xuất gia có học nội điển và ngoại điển. Nội điển bao gồm Kinh, Luật, Luận. Người xuất gia trước phải am tường nội điển để biết đường lối tu hành, về sau hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh. Kế là ngoại điển hay thế học, gồm các môn học có thể bổ trợ cho các Phật sự, gọi là Ngũ minh. Từ việc học cách làm rẫy, sửa điện, nấu cơm, truyền thông… cho đến học sinh ngữ, không chỉ dừng ở mức độ học mà còn phải thành thạo.

Quốc sư Phù Vân từng nói với vua Trần Thái Tông rằng: “Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên sự nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng phút nào quên”3. Lời dạy của Quốc sư cách đây hơn 700 năm, đến nay vẫn còn giá trị thiết thực và phù hợp với thời đại. Người xuất gia phải để tâm nghiên cứu nội điển, đừng phút nào quên; kế đến, biết sử dụng công nghệ 4.0 trong Phật sự hoằng pháp cũng chính là “lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình”. Thời đại như thế, chúng ta cũng khéo dùng tâm như thị mà làm Phật sự như thế, tùy duyên mà không đổi - không đổi mà tùy duyên.

Cho nên, việc học tập đối với con người, đặc biệt là người xuất gia, rất quan trọng và không bao giờ dừng nghỉ. Thế gian có câu “biển học vô bờ”, trong Tứ hoằng thệ nguyện có nói “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Học đến thuyết thông, tu đến tông thông, ắt làm bậc thạch trụ tùng lâm, làm nơi nương tựa cho chúng sinh.

Tóm kết, dù ở bất cứ đâu, trong thời đại nào, người đệ tử Phật muốn thành toàn bản thân cần trang bị cho mình năm món tư lương nền tảng: đạo đức, định lực, trí tuệ, nhẫn nhục và học vấn.

-------------------------

1 HT.Thích Thanh Từ (2018), Thiền sư Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr.357.

2 HT.Thích Thanh Từ (2015), Hoa vô ưu, tập 1, Nxb. Hồng Đức, tr.10.

3 HT.Thích Thanh Từ (2018), Thiền sư Việt Nam, tr.240.

Thích Đạt Ma Thiền Tuệ Thanh/Báo Giác Ngộ

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/hanh-trang-vao-doi-post76911.html