Hành trình trở thành giáo sư toán học của cậu bé bại liệt
GS.TSKH Ngô Việt Trung quê gốc Quảng Nam, là con trai của nhà ngoại giao, cố Đại sứ Ngô Điền.
Mắc bệnh bại liệt từ nhỏ, GS.TSKH Ngô Việt Trung, nguyên Viện trưởng Viện Toán học, không ngừng nỗ lực, gặt hái nhiều thành tựu, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành Toán học nước nhà.
“Gen trội” học Toán
Tôi gặp GS.TSKH Ngô Việt Trung khi ông vừa trở về sau chuyến đi gần một tháng dự Hội nghị Đại số giao hoán tại Viện Các khoa học Toán Simons Laufer (trước đây là Viện Nghiên cứu các khoa học Toán MSRI) ở Berkeley, Mỹ. Ông cho biết hội nghị có sự tham dự của hơn 120 nhà toán học quốc tế, trong đó có 3 người Việt là khách mời, là hội nghị lớn nhất trong chuyên ngành Đại số giao hoán trong nhiều năm gần đây.
GS.TSKH Ngô Việt Trung sinh năm 1953. Ông nhận bằng Tiến sĩ năm 1978 tại Đại học Martin-Luther Halle-Wittenberg, Đức. Từ đó đến nay, ông nghiên cứu và giảng dạy tại Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Ông được phong chức danh Phó Giáo sư và Giáo sư vào các năm 1983 và 1991. Ông là người xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu về chuyên ngành Đại số giao hoán tại Viện Toán học. Các nghiên cứu của ông thường có mối liên hệ đến các vấn đề trong hình học và tổ hợp.
Dù đã bước sang tuổi 70, năm nào ông cũng có những chuyến đi tương tự như thế. Tuy nhiên, GS.TSKH Ngô Việt Trung cũng thừa nhận, khi có tuổi, mọi thứ dần chậm lại. Việc tiếp tục tham gia các hội nghị khoa học giúp ông giữ mối liên hệ với các đồng nghiệp trên thế giới để có thể tiếp cận với những hướng nghiên cứu thời sự và kích thích trí não hoạt động.
GS.TSKH Ngô Việt Trung quê gốc Quảng Nam, là con trai của nhà ngoại giao, cố Đại sứ Ngô Điền. Ông Ngô Điền từng học tại Trường Quốc học Huế, tốt nghiệp tú tài ban Toán của Pháp.
Ông cũng từng được cử đi thi học sinh giỏi Toán toàn Đông Dương do Nha học chính Đông Dương tổ chức. Năm đó, kỳ thi không có giải Nhất, ông Điền giành giải Nhì, mang vinh dự về cho Trường Quốc học Huế. Sau này, ông Ngô Điền trở thành sinh viên khóa đầu tiên của Ban Khoa học, Đại học Đông Dương.
Dù cha là người giỏi toán nhưng trong ký ức của GS.TSKH Ngô Việt Trung, ông chưa từng được cha cầm tay giảng giải bất cứ bài toán nào. GS Ngô Việt Trung tâm sự, từ năm 5 tuổi cho đến khi vào đại học, ông ở với cha mẹ tổng cộng chưa đầy 1 năm.
“Cha mẹ tôi đi công tác nước ngoài gần như liên tục nên con cái phải gửi họ hàng hay trại trẻ trông nom. Trên thực tế, tôi chưa từng được cha kèm cặp, bảo ban việc học hành”, ông nói. Ảnh hưởng lớn nhất của người cha tới ông có lẽ nằm ở năng khiếu Toán học.
Từ nhỏ, việc học Toán đối với ông rất dễ dàng mà không phải cố gắng gì nhiều. Cứ khi bắt đầu vào năm học, có sách giáo khoa là cậu bé Ngô Việt Trung đã tự đọc, tự mày mò đọc và giải hết tất cả các bài tập kể cả các bài toán có dấu sao là các bài khó.
Những năm đầu tiểu học, GS Trung sống cùng bác ở thị xã Phủ Lý (Hà Nam), về sau mới lên “trại trẻ” ở Bắc Ninh dành cho con em cán bộ ngoại giao đang công tác ở nước ngoài. Bác của ông vốn là một giáo viên nên quan tâm tìm sách cho con cháu đọc. Nhờ thế mà ông có thói quen thích đọc sách từ nhỏ.
Cơ duyên với những người thầy
GS.TSKH Ngô Việt Trung kể, ông mắc bệnh bại liệt năm 3 tuổi. Nhờ có mẹ là y tá quân đội nên ông được cấp cứu kịp thời, giữ lại được mạng sống nhưng nửa người bên trái bị liệt. Về sau, nhờ tập luyện mà hồi phục dần song chân trái vẫn mang tật suốt đời.
Kể từ đó, việc đi lại trở nên khó khăn. “Tôi còn nhớ lúc nhỏ đi học hay bị trẻ con kêu “thằng què” rồi ném đá vào người tôi. Tôi tự vệ bằng cách thủ một cây gậy ngắn và vài hòn đá để đối phó lại.
Dù bị bại liệt, song ông chưa bao giờ cảm thấy tự ti, ông vẫn “hồn nhiên” với sở thích học toán, làm toán của mình. Năm lớp 7, GS.TSKH Ngô Việt Trung về ở với ông bà ngoại ở xã Thượng Cát, ngoại thành Hà Nội. Đây cũng là năm đầu xã có trường cấp 2 nên trường chỉ có một lớp 7. Học sinh chủ yếu là người làng khiến ông “tự nhiên trở thành người học giỏi nhất”.
Một hôm, ông được thầy chủ nhiệm báo đại diện cho trường đi thi học sinh giỏi cấp huyện mà không được chuẩn bị trước. “Lúc đó, tôi phải dùng nạng nên thầy đạp xe chở tôi đến trường Dịch Vọng thi và đợi bên ngoài để lại chở trò về.
Thi xong, thầy chê là dốt vì không giải được bài hình và vẽ lời giải trên sân trường cho tôi”. Dù không được giải trong kỳ thi này, nhưng ông lại đủ điểm để vào lớp bồi dưỡng thi thành phố.
GS Trung nhớ lại, đến ngày lớp bồi dưỡng thi cũng là lúc ông vừa đi làm nẹp chân ở Hải Dương trở về Hà Nội. Ông lập tức đến trường xin vào thi nhưng không được. “Tôi đứng ngoài khóc ròng trong lúc trời đổ mưa bên ngoài. Khóc vì sợ không được học tiếp cùng các bạn trong lớp bồi dưỡng”, ông kể.
Do không thi nên ông Trung không được chọn học lớp chuyên Đại học Sư phạm, chỉ được chọn vào lớp chuyên Toán của Hà Nội. Chủ nhiệm lớp là thầy Đặng Trần Thái.
Thầy vừa dạy Toán, vừa quản lý chuyện ăn ở của học sinh khi trường sơ tán ở Chương Mỹ, Hà Tây. “Tôi phải cảm ơn thầy Thái rất nhiều vì nếu không được ông dạy, chắc tôi sẽ không bao giờ trở thành một người làm toán giỏi”, ông nói.
Lớp của GS Ngô Việt Trung là lứa chuyên Toán thứ hai của Hà Nội nên không có giáo trình và tài liệu dạy chuyên như bây giờ. Mỗi tuần, lớp có thêm 2 tiết học Toán, chủ yếu là giải các bài khó từ sách dạy Toán của Pháp, không có kiến thức nâng cao so với sách giáo khoa.
“Học chuyên Toán đơn giản chỉ có vậy nhưng đến kỳ thi học sinh giỏi Toán toàn miền Bắc năm 1969, lớp tôi được 3 giải trong tổng số 6 giải của năm đó... Chắc cách dạy của thầy ảnh hưởng rất lớn đến kỹ năng giải toán của lớp tôi (tư duy khúc chiết hơn)”, GS Ngô Việt Trung chia sẻ.
Khi giành giải Nhất môn Toán toàn miền Bắc, GS.TSKH Ngô Việt Trung 16 tuổi. Điều trùng hợp là cha ông, nhà ngoại giao Ngô Điền cũng được giải Nhì môn Toán trong cuộc thi khu vực Đông Dương (không có giải Nhất), cũng vào năm ông 16 tuổi.
Bước ngoặt cuộc đời nhờ GS Tạ Quang Bửu
Vì được giải Nhất trong kỳ thi Toán toàn miền Bắc, ông Ngô Việt Trung được gọi tập trung thi tuyển đi du học nước ngoài. Tuy nhiên, việc bị liệt một chân (phải đi nạng) lại khiến ông không đủ tiêu chuẩn sức khỏe.
GS Tạ Quang Bửu lúc đó là Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đã chỉ đạo vẫn triệu tập học sinh Ngô Việt Trung dự kỳ thi tuyển chọn lưu học sinh (năm 1969).
“Chúng tôi được gọi tập trung thi tuyển lưu học sinh đợt đầu tiên ở Trường ĐH Bách khoa Hà Nội và được nghe bác Bửu huấn thị trước khi thi ngay tại cổng parabol. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy bác Bửu. Trông bác rất giản dị không khác gì những ông cán bộ xã ở quê ngoại của tôi. Bác Bửu là người trực tiếp ra đề toán nên các bài đều khó vì có nguồn gốc từ toán cao cấp. Tôi đạt điểm tối đa, trong khi phần lớn thí sinh bị điểm dưới trung bình”, GS Trung hồi tưởng.
“Không có nước nào nhận học sinh bị liệt sang học cả. Đúng lúc ấy có phái đoàn của Bộ Giáo dục và Đào tạo Đông Đức sang thăm Việt Nam. GS Tạ Quang Bửu đã đề nghị họ nhận tôi sang học như một trường hợp đặc biệt.
Sang Đức, tôi được phân công học Kỹ thuật thông tin vì Đức không nhận đào tạo Toán cho lưu học sinh Việt Nam năm đó. Hết 1 năm học tiếng, GS Tạ Quang Bửu lại can thiệp cho tôi chuyển sang học Toán. Rất nhiều năm sau tôi mới biết tất cả những chuyện này.
Nhiều người thời sau nhầm tưởng là gia đình tôi có mối quan hệ đặc biệt nào đó nên mới được bác Bửu giúp đỡ như vậy, nhưng kỳ thực bác Bửu để ý tới tôi vì tôi đoạt giải Nhất kỳ thi học sinh giỏi Toán miền Bắc. Không riêng tôi, học sinh giỏi có hoàn cảnh khó khăn của các năm khác dưới thời bác làm Bộ trưởng đều được bác quan tâm giúp đỡ”, GS Ngô Việt Trung chia sẻ.
Năm học đại học đầu tiên, lưu học sinh Ngô Việt Trung phải nằm bệnh viện nửa năm để được mổ chỉnh hình chân bị liệt. Sau đó, ông có thể đi lại gần như bình thường với nẹp chân bằng sắt.
Tuy nhiên “do đi lại khó khăn, nhất là khi mùa Đông có băng tuyết nên tôi thỉnh thoảng bỏ đi nghe giảng. May mà nhờ tự học nên tôi luôn đạt kết quả thi xuất sắc”. Tại Đức, ông lấy bằng thạc sĩ năm 1974.
Năm 1975 ông được cử sang lại Đức làm nghiên cứu sinh và lấy bằng tiến sĩ năm 1978. Sau đó, ông trở về nước và nhận công tác tại Viện Toán học. Năm 1983 ông được đại học cũ mời làm phó giáo sư thỉnh giảng 6 tháng và tranh thủ bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học trong thời gian này.
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ của GS Ngô Việt Trung là GS Wolfgang Vogel, một trong những chuyên gia đại số hàng đầu của Đức. “Lúc làm luận án tốt nghiệp đại học tôi đến xin học với GS Vogel vì tôi thích môn Đại số mà ông là Giáo sư Đại số duy nhất của Khoa Toán. Trước đó, tôi chưa từng nghe bài giảng nào của GS Vogel, người lúc đó còn rất trẻ và mới được phong học hàm”.
Khi xin theo học, GS Vogel nói: “Tôi cho anh hai tuần đọc cuốn sách này (cuốn sách tên “Đại số hiện đại” rất nổi tiếng), sau đó hãy đến gặp tôi”. Hai tuần sau, giáo sư chỉ hỏi một câu và ông Trung trả lời được ngay nên được nhận làm học trò. Rất may là GS Vogel nghiên cứu những vấn đề rất cơ bản của chuyên ngành Đại số giao hoán nên ông Trung đã nhận được một số kết quả đến bây giờ vẫn hay được trích dẫn.
Trăn trở về liêm chính khoa học
Gần đây, chủ đề liêm chính khoa học được bàn luận đến nhiều. Theo GS.TSKH Ngô Việt Trung thực trạng liêm chính khoa học ở Việt Nam rất trầm trọng, không chỉ riêng trong việc đăng bài ở các tạp chí mạo danh, mà còn thể hiện qua nhiều khía cạnh từ chuyện “đạo văn”, giả mạo số liệu nghiên cứu, mua bán công bố.
Nguy hiểm hơn, không chỉ cá nhân, mà còn có cả đại học vi phạm liêm chính khoa học. Nguyên nhân chính là những vụ việc này không được các cơ quan chức năng xử lý một cách thích đáng và dư luận xã hội coi những việc này là vô hại.
“Việt Nam đang tiệm cận Pakistan - nước nổi tiếng thế giới về thành tích công bố rởm và xếp hạng đại học rởm. Thậm chí một số đại học và cá nhân chúng ta còn tinh vi hơn trong việc ngụy tạo thành tích nghiên cứu để có xếp hạng cao trên thế giới.
Cứ tưởng tượng xem nếu chúng ta cho phép tồn tại những đại học hay giáo sư kiểu này thì họ sẽ đào tạo ra những con người cũng coi chuyện gian dối là bình thường. Chúng ta không thể đợi đến lúc xảy ra vụ việc liêm chính mới xử lý mà phải có những biện pháp giải quyết gốc rễ vấn đề như cấm nghiệm thu hay thưởng các công bố trong các tạp chí hay nhà xuất bản có tai tiếng về chất lượng duyệt bài”, GS.TSKH Ngô Việt Trung nói.
Để phát triển khoa học cơ bản, GS.TSKH Ngô Việt Trung khuyến nghị Việt Nam phải có cơ chế chính sách đặc thù để những người say mê làm khoa học phải sống được không những cho mình và cho cả gia đình họ để họ an tâm làm việc, đóng góp cho đất nước.
Bên cạnh chế độ đãi ngộ, một trong những vấn đề chính đối với các nhà khoa học trẻ chính là cơ chế hoạt động để họ có thể nghiên cứu một cách hiệu quả nhất. Nếu lấy các nhà khoa học về công tác thì phải sử dụng họ có hiệu quả. Bởi nếu không cơ chế hoạt động hiệu quả thì dù có đưa nhà khoa học giỏi nhất về thì họ cũng không làm được gì.
GS.TSKH Ngô Việt Trung là một trong 2 nhà khoa học được trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2022. Đây là giải thưởng của Bộ Khoa học - Công nghệ, được tổ chức hằng năm nhằm khích lệ, tôn vinh các nhà khoa học có thành tựu nổi bật trong nghiên cứu cơ bản thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Công trình mà GS.TSKH Ngô Việt Trung được trao giải thưởng là “Hàm độ sâu của lũy thừa hình thức Idean thuần nhất”, đăng trên tạp chí Inventiones Mathematicae 218 (2019), 1 trong 3 tạp chí Toán học đỉnh cao của thế giới. Đồng tác giả với GS Ngô Việt Trung là TS Ngô Đăng Hợp, một nhà toán học trẻ của Viện Toán học Việt Nam. Đây là lần đầu tiên một công trình thực hiện tại Việt Nam được đăng trên tạp chí này.