Hào quang IELTS: Cuộc đua bất bình đẳng trong nền giáo dục?
Sự bùng nổ của IELTS trong tuyển sinh đại học Việt Nam được ca ngợi như một cách hội nhập minh bạch. Nhưng đằng sau ánh hào quang ấy là những gợn sóng bất bình đẳng, nguy cơ 'chảy máu ngoại tệ' và câu hỏi lớn về công bằng trong nền giáo dục lấy công bằng làm nguyên tắc.
Khoảng cách nông thôn - thành thị
Chỉ trong vài năm, IELTS vốn dĩ được thiết kế như một công cụ đánh giá năng lực tiếng Anh học thuật cho du học và di cư đã biến thành “tấm vé vàng” trong tuyển sinh đại học Việt Nam.
Con số tăng trưởng chóng mặt khiến nhiều người sửng sốt: ĐH Kinh tế Quốc dân nhận tới 25.000 hồ sơ, Học viện Ngân hàng hơn 13.000, nhiều trường khác tăng gấp 3–4 lần chỉ trong một mùa thi.
Ông Lê Hoàng Phong, nhà sáng lập và giám đốc học thuật Tổ chức Giáo dục và đào tạo Your-E cho rằng, trên bề mặt, đây là câu chuyện đáng mừng: một thế hệ học sinh khát khao hội nhập, phụ huynh nhanh nhạy, trường đại học tìm kiếm cách tuyển chọn minh bạch hơn. Nhưng dưới bề mặt ấy là những gợn sóng ngầm, những câu hỏi nhức nhối về sự bất bình đẳng, nguy cơ “chảy máu ngoại tệ” quy mô lớn, và hơn hết là quyền tự chủ của giáo dục Việt Nam.
Tại Hà Nội, trong khi các bạn và gia đình ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa ki cóp lấy vài triệu đến chục triệu để đầu tư “tấm vé vàng” là chứng chỉ IELTS trong vài năm tới thì có rất nhiều học sinh trong thành phố lớn có điều kiện “vượt sướng” để tiếp cận với chứng chỉ này.
Đơn cử, Em N.T.Đ, học sinh lớp 11 trường THPT chuyên danh giá của Hà Nội, được bố mẹ đầu tư học với một thầy giáo người Anh chuyên luyện thi IELTS. Gia đình sẵn sàng bỏ ra gần 100 triệu đồng/ khóa học 6 tháng, trung bình hơn 1,3 triệu đồng/ buổi.
Hay em N.V.D, học sinh vừa trúng tuyển vào lớp 10 chuyên Sinh ở Hà Nội. Cách đây 4 năm, gia đình em đã nhờ giáo viên là du học sinh bên Châu Âu dạy kèm con mình môn tiếng Anh học 1-1. Và giờ, với điều kiện sẵn có, vừa trúng tuyển vào lớp 10, em không đến trung tâm học chung với các bạn khác rẻ hơn, em vẫn chọn học với số tiền 2 triệu/ buổi học.
Ngược lại, ở một huyện ngoại ô Hà Nội, em H., mồ côi cha mẹ sống cùng bà ngoại 82 tuổi, học miệt mài suốt một năm nhờ học bổng IELTS miễn phí. Kết quả thi thử cho thấy em có thể đạt 6.0, một điểm số đáng mơ ước. Nhưng rồi kỳ thi chính thức đến, em không bước vào phòng thi, vì 4,64 triệu đồng lệ phí là số tiền cả nhà ba tháng mới dám tiêu.
Một trường hợp khác, ở miền Tây huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp, em T., con nhà làm thuê, biết đến IELTS qua những video trên mạng. Trung tâm gần nhất cách hơn 50 km. Mỗi chuyến xe khách đi về đã là nửa ngày công của mẹ.
Với những em như H. và T., “cánh cửa IELTS” chưa bao giờ thực sự mở. Đây không chỉ là những mảnh đời riêng. Đây là bất bình đẳng cấu trúc, khi quyền được tiếp cận cơ hội bị ràng buộc bởi khả năng chi trả. Trong một nền giáo dục lấy công bằng làm nguyên tắc, đó là tín hiệu báo động.
Công bằng tuyệt đối, có không?
Trao đổi với PV Tiền Phong, thầy Nguyễn Trần Bình An, ứng viên thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học Ứng dụng tương lai tại University of York (Anh) đánh giá, cộng điểm IELTS vô hình trung tạo “ưu tiên kép” cho nhóm học sinh khá giả.
Thầy An cho rằng, việc sử dụng chứng chỉ IELTS để xét tuyển đại học vô hình trung tạo ra lợi thế vượt trội cho học sinh đến từ các gia đình khá giả so với các bạn có điều kiện kinh tế hạn chế. Ngay từ nền tảng, các em đã được hưởng những điều kiện học tập tốt hơn, từ cơ sở vật chất, chất lượng giáo viên cho tới các lớp học thêm, các tài liệu chất lượng. Nhờ có khả năng tiếp cận vượt trội, những học sinh khá giả thường sẽ đạt được điểm học bạ và điểm thi đại học các môn xét tuyển cao, tạo tiền đề thuận lợi khi xét tuyển đại học.
Cũng theo thầy An, chính sách cộng điểm IELTS càng làm rõ sự chênh lệch về điều kiện kinh tế này. Nhiều gia đình khá giả đã cho con tiếp cận tiếng Anh từ nhỏ qua các lớp tiếng Anh chuyên sâu và tài nguyên tiếng Anh phong phú, mô phạm, và khi lớn lên, tiếp tục đầu tư cho con luyện thi IELTS ở những trung tâm có chất lượng.
Chi phí cho quá trình lấy chứng chỉ IELTS là không hề nhỏ: một buổi học IELTS hiện nay trung bình 150.000–200.000 đồng, và để từ trình độ 3.5-4.0 (trình độ đầu ra của học sinh hết cấp 2, tương đương với A2) lên mức 7.0–7.5 (mức điểm IELTS cạnh tranh) cần khoảng 700-800 giờ học có hướng dẫn (theo Cambridge English), tương đương với 250-300 buổi học (sau khi đã trừ bớt đi khoảng thời gian tự học và học trên trường), tầm khoảng 40-45 triệu đồng, chưa kể lệ phí thi và học lại, thi lại. Với nhiều gia đình, đây là một khoản chi quá sức.
Trao đổi với PV, ông Nguyễn Đình Độ - Hiệu trưởng Trường THPT Thành Nhân, TPHCM cho hay, những năm gần đây, việc học IELTS không chỉ được phụ huynh học sinh mà nhà trường cũng quan tâm tạo điều kiện.
Riêng tại trường, trung bình có khoảng 50% học sinh tốt nghiệp THPT lấy được chứng chỉ IELTS với mức dao động từ 6,5 – 8.0 điểm, là “phao cứu sinh” của nhiều em khi xét tuyển vào các nhóm trường tốp đầu, đặc biệt là khối ngành sức khỏe, kỹ thuật…
Theo ông Độ, hiện nhiều trường đại học có chính sách cộng điểm, quy đổi cho học sinh có chứng chỉ IELTS, chứng chỉ ngoại ngữ khác nên nhà trường xác định đây là lợi thế dành cho các em học sinh xét tuyển đại học có tổ hợp môn tiếng Anh.
Về vấn đề học lệch và thiếu công bằng giữa học sinh thành thị với vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa ông Độ cho rằng quan điểm này chưa thật sự chính xác. Thứ nhất là học lệch, việc luyện chứng chỉ IELTS được trường bố trí khoa học, cả thầy và trò xác định đây chỉ là môn học phụ làm điểm cộng cho xét tuyển đại học và bồi dưỡng thêm kiến thức. Hơn nữa, việc học và thi IELTS là cả một quá trình chứ không phải ngày một ngày hai, riêng đối với Trường Thành Nhân, việc học này chỉ ưu tiên cho học sinh khối 10 và 11, đến năm lớp 12 học sinh gần như không còn thời gian để học và luyện IELTS.
Về vấn đề thiếu công bằng giữa thành thị và nông thôn, vùng sâu vùng xa, ông Độ cho rằng vấn đề này ít nhiều là có nhưng nghĩ cách khách quan hơn thì lại công bằng. Đồng ý học sinh vùng nông thôn thiếu thốn về điều kiện kinh tế, môi trường để học và luyện IELTS song nếu cố gắng, các em vẫn có thể học bằng nhiều phương thức qua tài liệu tham khảo và qua mạng internet với nhiều phần mềm và ứng dụng cả miễn phí lẫn có phí. Đặc biệt, với học sinh vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, lâu nay các em được cộng điểm vùng nên việc cộng điểm IELTS cho học sinh ít nhiều cũng giúp cân bằng hơn trong vấn đề xét tuyển…
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Đăng Khoa, Hiệu trưởng Trường THPT Trưng Vương, TPHCM cũng cho rằng, chính sách quy đổi, cộng điểm IELTS/ chứng chỉ ngoại ngữ cho thí sinh trong xét tuyển trước khi đưa vào áp dụng chắc chắn đã được phân tích, đánh giá kỹ. Việc công bằng tuyệt đối giữa các thí sinh là khó nhưng nhìn tổng quan, đây là việc cần thiết để tuyển chọn đầu vào phù hợp với từng ngành, từng trường.